từng bức thư pháp treo trên tường. Trong bầu không khí nhân văn đậm đặc,
tôi rất dễ quên rằng đây là tòa án trang nghiêm, tĩnh lặng.
Lần thuyết trình văn học này là một trong chuỗi các tọa đàm khoa học
nhân văn do Chánh án Tòa án địa phương Gia Nghĩa là ông Viên Tái Hưng
lên kế hoạch và đẩy mạnh phát triển, cơ quan tòa án cổ vũ đồng nghiệp
trong toàn tòa đến nghe, đồng thời mở cửa tự do cho người dân tới tham
dự. Trong lời phát biểu mở đầu tọa đàm do đích thân Chánh án viên điều
hành, tôi thấy được ông rất thuộc các sáng tác thơ của tôi, hơn nữa, không
phải là những lời giới thiệu chung chung mà ông còn nhắc đến một vài bài
thơ của tôi mà ông ấy rất thích, khiến tôi vô cùng xúc động. Một trong
những bài thơ đó là Chúng tôi cũng có nỗi nhớ quê hương của mình. Bài
thơ Chúng tôi cũng có nỗi nhớ quê hương của mình cùng một số bài như
Hòn đảo bé nhỏ, Góc độ... được tập hợp lại thành một tuyển tập đăng trên
tờ Phụ san Tự do của Thời báo tự do vào tháng 4, 5 năm 1999. Chánh án
viên đã chọn một đoạn trong bài thơ rồi mời thư pháp gia viết nên bức
hoành phi treo ở nơi nổi bật như thế này ắt là cũng có hàm ý sâu xa của nó.
Hàm ý của nỗi nhớ quê hương có rất nhiều tầng ý nghĩa, có nỗi nhớ
quê hương về sinh mệnh, nhớ quê hương về tâm hồn nhớ quê hương, về
thời gian còn bài thơ nhỏ này của tôi, tóm lược lại, chủ yếu là tổng kết lại
lịch trình tâm hồn sau nhiều năm kiếm tìm sự đồng cảm với đất đai.
Từ đầu những năm 50, 60, vào thời niên thiếu của tôi, tôi đã tiếp xúc
với văn học. Khi ấy trên văn đàn đang thịnh hành văn học nghệ thuật chiến
đấu, văn học chống Cộng, từ đó ra đời hàng loạt các tác phẩm hoài niệm về
quê hương, cố quốc. Kế tiếp sau đó nổi lên trào lưu nhạc khúc về của
những kẻ du tử phiêu bạt, lang thang, ngao du khắp vũ trụ. Các nhạc khúc
này thay đổi liên tục các loại giai điệu, truyền tụng khắp nơi trên hòn đảo
nhỏ, trở thành trào lưu chủ đạo của văn học.
Dù là “sứ mệnh thần thánh” để “khôi phục Thần Châu” (lấy lại đất
xưa) hay chỉ là những làn điệu trữ tình lãng mạn của kẻ du tử phiêu bạt, thì