là kẻ bị hại đầy bất lực; còn những đứa trẻ trong từng gia đình đại diện cho
tất cả những người tiêu dùng, vui vẻ nhai cơm, là người bị hại “không hay
biết”.
Từ tháng 5 năm 1979, tôi đăng một loạt các tác phẩm tản văn với chủ
đề Người phụ nữ nông thôn trên Phụ san Liên hợp - Báo Liên hợp, đến năm
1982 tập hợp lại in thành sách. Người phụ nữ nông thôn là những phụ nữ
nông thôn trong vai trò người mẹ là chính, lấy đề tài là những câu chuyện
trong đời sống thường ngày. Trong đó có một bài, tên gọi là Thuốc trừ sâu,
miêu tả tâm lý chống đối lại thuốc trừ sâu.
Khi ăn, mẹ lại than thở: Cơm càng ngày càng không thơm nữa rồi.
Không ngửi thấy mùi thơm nức như trước đây nữa.
Vợ không hiểu liền hỏi: Tại sao thế ạ? Chẳng phải giống nhau sao ạ?
Mẹ nói: Thuốc trừ sâu đấy! Mọi người ra sức phun thuốc sâu, mỗi vụ
lúa phun mấy lần liền, cơm làm sao mà thơm mà ngon được nữa?
Rau xanh phun thuốc còn nhiều hơn. Tôi nói: So với rau xanh, lúa gạo
còn chưa nghiêm trọng bằng.
Mẹ không biết chữ, chẳng có kiến thức gì cao siêu, không hiểu những
lý luận sâu xa, nhưng tri thức cuộc sống từ đất đai, và khả năng phán đoán
thị phi một cách giản đơn, chính trực đã khiến bà không thể chấp nhận
được thuốc sâu. Lý lẽ rất đơn giản: thuốc sâu độc hại như thế, con người
chỉ cần ngửi thấy, hoặc bị hun là đã chóng mặt, nôn mửa, nói gì đến chuyện
được phun lên thực vật, thực vật hấp thụ vào rồi cho con người ăn, làm sao
có thể không có chuyện gì?
Mắt nhìn thấy thuốc sâu tràn lan, khó trách lúc cuối đời mẹ thường ưu
tư than thở: Sẽ hỏng hết, hỏng hết, thời thế ngày càng hỏng…