Bài thơ Chẳng hạn đăng trên tập san thơ Nón lá (số 82) tháng 12 năm
1977, cũng giống như rất nhiều bài trong chùm thơ Nói với con, bề ngoài là
“giáo dục gia đình”, nhưng lại mang “ngụ ý” phê phán xã hội.
Tôi không phải là thực sự sợ đến mức không dám trả lời trực tiếp, mà
là tự kiềm chế mình, không muốn lên án bất kỳ việc gì của Đài Loan trước
mặt “người ngoài”, nhưng càng không muốn nói dối để tô vẽ cho chính
quyền độc tài. Kỳ thực, câu trả lời đó của tôi đã rất rõ ràng.
Đài Loan từng trải qua sự thống trị hà khắc của bọn Khủng bố trắng
những năm 50 - 60, mãi đến thập niên 80 vẫn phải chịu sự kiểm soát chặt
chẽ về ngôn luận, đã “tạo ra” vô số những người con lưu lạc bên ngoài mà
không thể trở về quê hương, đó là sự thực lịch sử rõ ràng không phải bàn
cãi.
Đến nay vẫn còn không ít chính khách tay sai hồi đó mượn phương
tiện truyền thông biện bạch Đài Loan chưa từng có khủng bố trắng, đồng
thời công khai ca ngợi “trí tuệ sáng suốt”, “văn minh” của những kẻ độc tài.
Những lời dối trá tày trời như vậy mà có thể nói một cách hùng hồn
đến thế, thì thử hỏi thế gian còn nói gì đến công lý nữa?
Sự hàm súc ẩn dụ của thơ, dường như là yêu cầu mà các nhà phê bình
thơ ca đều nhất trí, vậy thì đứng trước bạo lực của những lời nói dối trần
trụi, thơ cố nhiên “chân thực hơn cả lịch sử”.
Năm 1988,
in trong Một bài thơ, một câu chuyện.
Nguyễn Thanh Diên dịch