hàng bách hóa, một chuyến du thuyền đến đảo Toronto, cũng không thể đền
bù cho chúng nỗi thiếu vắng bạn bè hay khiến chúng cam chịu dáng vẻ như
trò hề của ngôi nhà tôi chu cấp cho chúng. Chúng nhớ lũ mèo của chúng.
Chúng muốn có phòng riêng, có tự do láng giềng, và có những buổi ở nhà
nhởn nhơ.
Trong một thời gian, chúng không phàn nàn gì cả. Tôi nghe thấy đứa lớn
nói với đứa bé. “Hãy để mẹ nghĩ chúng mình đang sung sướng. Không thì
mẹ sẽ buồn đấy.”
Cuối cùng cảm xúc cũng bùng nổ. Những lời cáo buộc, thú nhận nỗi khổ
sở (thậm chí còn phóng đại nỗi khổ sở lên, tôi nghĩ thế, vì lợi ích của tôi).
Đứa nhỏ rên rĩ, “Sao mẹ không thể về nhà mà sống,” và đứa lớn chua chát
nói với em, “bởi vì mẹ ghét bố.”
Tôi gọi điện cho chồng - anh hỏi tôi một câu hỏi tương tự và tự đưa ra
một câu trả lời tương tự. Tôi đổi vé và giúp hai con thu xếp hành lý rồi đưa
chúng ra sân bay. Suốt đường đi chúng tôi chơi một trò ngớ ngẩn do đứa
lớn giới thiệu. Người chơi phải chọn một con số - 27, 42 - rồi nhìn ra cửa
sổ và đếm đàn ông nhìn thấy, và người thứ 27 hay 42, hay bất kỳ số nào, sẽ
là người phải cưới.
Quay về một mình, tôi thu nhặt mọi thứ gợi nhớ tới hai con - một bức
tranh vui đứa bé vẽ, một tờ tạp chí Glamour đứa lớn mua, đủ loại đồ trang
sức và quần áo chúng có thể mặc ở Toronto nhưng không mặc được ở nhà -
rồi nhét cả vào túi rác. Và mỗi lần nghĩ đến con tôi lại làm một việc gần
tương tự - tôi đóng sập tâm trí của mình lại. Tôi có thể chịu được nhiều nỗi
khổ sở - những chuyện liên quan đến đàn ông. Còn những nỗi khổ sở khác -
liên quan đến con cái - tôi không chịu đựng nổi.
Tôi quay lại nếp sống trước khi các con đến. Tôi thôi nấu bữa sáng và ra
ngoài uống cà phê, ăn bánh mì mới ra lò ở quầy đồ ăn sẵn kiểu Ý. Từ trước
tới nay cái ý tưởng được giải thoát khỏi khung cảnh gia đình vẫn làm tôi
vui thích.
Nhưng lúc này tôi mới nhận ra điều trước đây tôi không hề thấy, đó là
nét mặt của mấy người sáng nào cũng ngồi trên ghế đẩu đằng sau cửa sổ