khiến lão cảm thấy họ cần mình. Còn bây giờ thì lão lại nói dối họ. Chẳng
có cái nhà nào đang xây cả - không phải cho họ.
Trong nỗi khổ tâm, lão ngước mắt nhìn lên phía trên bàn thờ - lên những vì
sao trên bầu trời Paris. “Lạy Chúa,” lão mấp máy môi không thành tiếng,
“con không còn nhớ phải cầu nguyện thế nào. Giờ đây con chỉ biết van xin.
Vậy nên con van xin Người hãy tìm cho gia đình này một mái ấm.”
Đến đó thì lão chợt xấu hổ nhận ra mình đang chìa cái mũ bê rê theo cách
vẫn xin ăn hàng ngày. Lão vội chụp nó lên đầu.
Khi cả nhóm về đến trại lúc rạng sáng thì thấy người gypsy đều đã dậy hết,
kể cả Petro. Chẳng mấy chốc họ đã hiểu vì sao.
“Nhìn này!” Tinka vui vẻ kêu lên. Nó chỉ vào một cây thường xanh đẹp đẽ
trước ngôi nhà gypsy. “Chúc mừng Giáng sinh!” nó reo lên.
Cái cây có màu xanh nõn khác thường với những cái gai mềm tựa lông. Trên
những cành duyên dáng buộc những gói quà nho nhỏ bọc giấy màu đỏ, trắng
và lam dường như được nhặt ở gần chợ Halles. Trên đỉnh ngọn cây treo một
ngôi sao bằng đồng giống như miếng vá mà người gypsy dùng để vá xoong
nồi.
“Tôi dám cá đây là cái cây tươi nhất, xinh nhất Paris,” Nikki kiêu hãnh nói.
“Tôi chặt ở vườn bách thảo mới vài giờ trước thôi. Mà cái biển treo ở đó nói
rằng đây là loài cây rất quý hiếm ở mãi bên Ấn Độ cơ đấy.”
Bọn trẻ gypsy gỡ những gói nhỏ trên cây xuống và đưa cho bọn trẻ nhà
Calcet. Bên trong là hạt dẻ, kẹo cùng những món đồ chơi bằng nhựa.
“Bọn tớ thích tặng quà,” Tinka giải thích. “Có lẽ là vì một trong các nhà
thông thái mang quà đến cho Chúa Hài Đồng là người gypsy.”
“Tớ chưa từng nghe chuyện đó,” Suzy nói.