Chị Năm và hai con đi vắng cả. Anh Chín tần ngần nhìn cái nong
dựng thay cánh cửa nát, khoảnh sân hẹp bị cỏ lấn vào lún phún, những sợi
tranh bị chuột xốc xới nổi vàng tươi trên mái nhà đã ngả màu xám sẫm của
tro củi tre. Anh nói với Bê, thấp giọng như sợ ai trong nhà nghe được và
tưởng anh làm ơn mọn:
- Thỉnh thoảng các cậu tới giúp chị Năm một chút. Chị em cán bộ cực
hơn tụi mình nhiều, nhứt là chồng đi xa...
- Dạ.
Anh Chín không xuống thuyền mà đi bộ dọc bờ sông.
Miền Trung đất nghèo có những chiều đông đẹp lạ, khi trời trở lại
xanh trong như mùa thu, nắng tỏa vàng màu mật ong mới rót, gió chỉ đủ
lạnh để giục trẻ em chạy nhảy chung quanh bầy trâu và không khí đượm
mùi men rượu nếp. Anh Chín bước chầm chậm, nhìn quanh. Mảnh mặt trời
bẻ đôi đặt trên núi nhả một luồng lửa cháy rừng rực qua sông, xoay theo
anh như một ánh mắt cười lấp láy.
Dõng và Bê đã báo cáo về cuộc nổi dậy, tưởng anh Chín đang xem các
hầm chông hay bãi khoai, đợi nghe anh nhận xét. Nhưng anh cứ lặng im.
Anh đang tự cho phép mình trong một lúc tách khỏi những lo toan hằng
ngày để hưởng cho hết nỗi say sưa của người cách mạng thắng trận đang
cảm thấy đất dưới chân là đất của mình, trời trên đầu là trời của mình. Khi
đã về ta, trời đất đã đẹp càng thêm đẹp.
Giải phóng rồi.
Anh Chín quen lắm với khúc sông và đoạn đường mòn này, nhưng
nhìn lại vẫn thấy khác. Mới cách đây một tuần, anh còn phải nép trong bãi
dâu bên kia sông, đợi đến nửa đêm mới dò dẫm ra bờ sông, tìm chấm đèn
nhà chị Năm báo hiệu vắng địch. Phải bơi thật nhanh mà không cho nước
dội sóng, một tay ôm gói áo quần túm trong tấm nhựa làm phao, một tay