ngoài vào Việt Nam, năm sau cao gấp bội năm trước. Chỉ số tín nhiệm quốc
gia của Việt Nam cũng tăng lên theo thời gian. Những năm trước, trên bảng
xếp hạng về rủi ro quốc gia (country risk), Việt Nam còn ở nhóm 5. Ngày
nay, nước ta được xếp vào những thứ hạng đầu của nhóm 4. Sự cải thiện
môi trường đầu tư ở nước ta đã có những tiến bộ nhất định. Đầu tư nhà
nước nhằm xây dựng tiện nghi hạ tầng đã đạt được những kết quả cụ thể
như sau: đường dây 500KV Bắc - Nam, hệ thống liên lạc viễn thông, hệ
thống điện thoại, việc cải tạo mạng lưới điện tại thành phố... Sắp tới sẽ triển
khai các dự án sửa chữa, nâng cấp, mở rộng các tuyến đường quan trọng
của quốc lộ 1, Hà Nội - Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh - Nha Trang,
xây dựng cầu bắc qua sông Tiền, sông Hậu, thiết lập hệ thống cáp quang.
Thêm vào đó, Ngân hàng Thế giới đã chấp thuận tài trợ và chuẩn bị triển
khai thực hiện dự án xây dựng hệ thống thanh toán hiện đại cho Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam. Rồi những nỗ lực khác nhằm cải cách bộ máy và thủ
tục hành chính, cải cách hệ thống thuế khoá. Tất cả những điều đó chắc
chắn sẽ mở rộng khả năng tiếp nhận nguồn đầu tư nước ngoài của chúng ta,
tạo điều kiện cần thiết để biến các chỉ tiêu dự kiến trong chiến lược phát
triển kinh tế đến năm 2000 thành hiện thực.
Khả năng tiếp nhận đầu tư của một nước có thể có những giới hạn vào
một thời điểm. Nhưng không có giới hạn nào là không thể vượt qua. Loại
trừ yếu tố thời gian, khả năng đó có thể trở thành vô hạn. Khi còn cơ hội để
đầu tư sinh lợi là còn đầu tư. Vấn đề quan trọng then chốt là xây dựng cho
được một nền kinh tế sinh động, không ngừng tạo ra và làm sinh sôi nảy nở
những cơ hội đầu tư mới.
Năm 1996