và cách thức mà Chính phủ chi tiêu số tiền đó (trả lương, mua vật tư thiết
bị…) nhằm giảm mức tài nguyên sử dụng và giảm chi phí. Mặt khác, Chính
phủ cũng phải xem xét lại khối lượng hàng hóa dịch vụ cung ứng từ khu
vực Nhà nước để biết chắc rằng chúng phục vụ tối đa lợi ích của công dân.
Thí dụ: khi chọn lựa áp dụng một trong nhiều loại thuế, Chính phủ phải
tính toán xem loại thuế nào ít gây tốn kém nhất cho Nhà nước và cho cả
công dân trong hoạt động kinh tế của họ, trong điều kiện số thuế thu được
là ngang nhau. Khi sử dụng khoản chi ngân sách, Chính phủ cũng phải tính
toán xem nên chi tiêu ưu tiên cho loại nào (lương bổng, vật tư, thiết bị…)
và sự phối hợp các khoản chi phải được thực hiện như thế nào để phục vụ
tối ưu cho công dân và cho nền kinh tế.
Để đảm bảo thực hiện mục tiêu này, mọi quyết định của Chính phủ về cơ
bản phải dựa trên nguyên tắc hiệu quả.
2. Thực hiện công bằng
Công bằng là mục tiêu của mọi xã hội dân sự. Để đạt được mục tiêu này,
Chính phủ phải thực hiện việc huy động và sử dụng tài nguyên một cách
công bằng, có nghĩa là phân phối một cách hợp lý chi phí và lợi ích của các
hoạt động Chính phủ cho công dân và các nhóm công dân. Trong sự phân
tích các hoạt động của Chính phủ và bộ máy hành chính, sự hợp lý được
hiểu như sự phân phối các chi phí theo cách thức có lưu ý đến yếu tố là
những cá nhân và nhóm công dân khác nhau có những khả năng khác nhau
trong việc đài thọ các phí tổn đó, và ai có khả năng đài thọ cao hơn thì phải
trả nhiều phí tổn hơn. Đây là nguyên tắc khả năng đài thọ. Dựa trên nguyên
tắc này, sự hợp lý cũng có nghĩa là nguồn lợi sẽ được Chính phủ phân phối
cho những người nào cần đến nhiều nhất.
Mục tiêu công bằng không đòi hỏi phải tối thiểu hóa chi phí hay tối đa
hóa lợi ích từ các hoạt động của Chính phủ, nhưng yêu cầu chi phí tổn hay
lợi ích đó phải được phân phối hợp lý, dựa trên khả năng đài thọ của các
nhóm công dân.