Trong Đại chiến Thế giới lần thứ II, các ngành kinh tế Mỹ
nhất là ngành công nghiệp quân sự đều phát triển nhanh chóng.
Tới năm 1945, thu nhập quốc dân của Mỹ tăng hơn gấp đôi năm
1939, tổng trọng tải của đội tàu buôn lên tới 57 triệu tấn, chiếm 2/3
đội tàu buôn toàn thế giới, lượng vàng và kim loại quý Mỹ sở hữu
cũng chiếm 59% toàn thế giới, đồng dollar Mỹ trở thành đồng
tiền mạnh thực sự duy nhất trên thế giới hồi ấy. Trong thương
mại quốc tế Mỹ cũng chiếm địa vị lũng đoạn. Sức mạnh quân sự
Mỹ chẳng những thâm nhập khắp đại lục châu Âu mà còn chiếm cứ
nhiều địa điểm chiến lược quan trọng tại các vùng khác trên thế
giới. Sự độc quyền về vũ khí hạt nhân càng làm cho Mỹ trở thành
cường quốc quân sự có sức răn đe nhất. Sức mạnh quân sự, kinh
tế, chính trị của Mỹ sau chiến tranh tạo điều kiện để Mỹ trở thành
vai chính trên sân khấu chính trị thế giới và lấp đầy những
khoảng trống do các nước châu Âu để lại.
Thế nhưng có sức mạnh chủ đạo thế giới còn cần có quyết
sách chiến lược và dã tâm chủ đạo thế giới - điều đó phụ thuộc vào
việc nước Mỹ có thoát ra khỏi chính sách “chủ nghĩa biệt lập” hay
không. Xét thấy “chủ nghĩa quốc tế” của Wilson sau Thế chiến I
từng bị thất bại, để tránh giẫm lên vết xe đổ cũ, chính phủ
Roosevelt trong thời gian chiến tranh đã bắt tay chuẩn bị về chính
sách và dư luận.
Sau vụ Trân Châu cảng, chính phủ Mỹ thành lập Ủy ban Tư vấn
chính sách đối ngoại sau chiến tranh, do Bộ trưởng Ngoại giao
Cordell Hull và Thứ trưởng Ngoại giao Sumner Welles làm chánh,
phó chủ tịch, nhằm ấn định chính sách bố trí trật tự thế giới sau
chiến tranh. Tại hội nghị ba nguyên thủ (Mỹ, Anh, Liên Xô) họp
trong thời gian chiến tranh, Roosevelt đã chuyển hóa các chính sách
đó thành sự thu xếp cụ thể sau chiến tranh, cố gắng biến đồng
minh thời chiến thành cơ chế hợp tác thu xếp thế giới sau chiến