thương mại, đến thập niên 80 đã phát triển tới mức “cọ xát có tính
tổng hợp”.
Phạm vi cọ xát thương mại Nhật - Mỹ đã không còn giới hạn ở các
sản phẩm cá biệt mà mở rộng đến sự va chạm trên các lĩnh vực công
nghệ mũi nhọn, tài chính cho tới cơ cấu ngành nghề. Trong lĩnh
vực công nghệ mũi nhọn, bán dẫn thuộc về ngành sản xuất trung
tâm; “cuộc chiến bán dẫn” là một thí dụ điển hình về chiến tranh
công nghệ cao giữa Nhật với Mỹ. Vì Mỹ phát minh ra bán dẫn nên
mới đầu Mỹ chiếm ưu thế tuyệt đối. Năm 1977, sản phẩm bán
dẫn Mỹ chiếm 3% trên thị trường Nhật, tỷ lệ này của Nhật tại Mỹ chỉ
có 1,6%. Nhưng tới thập niên 80 thế kỷ XX, Nhật đi sau về trước,
vượt Mỹ. Kết quả là các bộ nhớ dùng trong siêu máy tính Mỹ đều là
hàng Nhật; các trang bị quân sự và vũ khí cấp cao cũng dùng chi
tiết bán dẫn Nhật chế tạo. Theo thống kê của “Hội công nghiệp
bán dẫn Mỹ”, doanh số thị trường bán dẫn Mỹ năm 1984 là 11,6 tỷ
USD, năm 1987 tăng lên 18,1 tỷ USD, trong đó tỷ lệ của Nhật từ 14%
tăng lên 20%. Trong thời kỳ đó tỷ lệ của Nhật trên thị trường bán dẫn
thế giới từ 38% tăng lên 43%. Xét về sản phẩm công nghệ mũi
nhọn, tỷ lệ chiếm hữu của máy tính Nhật trên thị trường Mỹ từ 1%
năm 1980 tăng lên 7,2% năm 1984; tỷ lệ máy móc thông tin từ 1,8%
tăng lên 3,6%; các cấu kiện điện tử từ 3,2% tăng lên 7,2%; các thiết
bị điện tử như ti vi và máy ghi âm từ 27,1% tăng lên 40,2%. Do hàng
điện tử Nhật xuất khẩu sang Mỹ tăng mạnh, tiếng nói phê phán
Nhật trong dư luận Mỹ ngày một lên cao. Tháng 7 năm 1987 từng có
người đập máy thu thanh do hãng Toshiba chế tạo ngay trước toà
nhà Quốc hội Mỹ để tỏ ý phản đối, yêu cầu cấm toàn diện việc
nhập sản phẩm Toshiba vào Mỹ.
Cuối thập niên 80 thế kỷ XX, Nhật không ngừng xâm nhập
nền công nghiệp quốc tế, và mua nhiều tài sản của Mỹ, trong đó
có cả toà tháp Rockefeller “tượng trưng cho nước Mỹ” và công ty điện