tới mục nát trong các hải cảng, các tướng lĩnh và đô đốc cởi bỏ quân
phục về nhà lĩnh lương hưu. Vị trí của các tướng lĩnh được thay
bằng các nhà ngoại giao để tóc dài và rủng rỉnh tiền của. Số tiền
bạc ấy được dùng để mua hòa bình. Tìm kiếm hòa bình bằng bất
cứ giá nào thậm chí dùng cả những thủ đoạn mờ ám, trở thành quốc
sách mới của nước cộng hòa.
Trong suốt thế kỷ XVIII, Hà Lan không thực sự xây dựng quân
đội; đây là một hành động tự sát. Nước Cộng hòa Hà Lan từng là
cường quốc chủ yếu trên biển nay không thể không chiêu mộ sĩ
quan hải quân từ nước ngoài. Hạm đội Hà Lan nhỏ yếu nhiều lần
về nước cùng với những tin thua trận nhục nhã. Các thương nhân Hà
Lan trên Đại Tây Dương và các tàu cá Hà Lan trên Biển Bắc lâm vào
tình cảnh bị nước khác bắt giữ, xua đuổi, phải trốn đi khắp nơi.
Trên đất nước Hà Lan không ngừng suy yếu trong thế kỷ
XVIII, mọi người chỉ biết gào lên chúng tôi cần tiền, tiền, nhiều
tiền nữa vào. Người Hà Lan vứt đi “túi đạn” trên người mình, còn
“túi tiền” của họ cũng trở thành vật săn lùng của lũ cướp biển.
Nước Pháp cũng có bài học về mặt này. Tướng Pháp Beaufre
viết trong sách “Năm 1940: sự sụp đổ của nước Pháp”: Cho tới đêm
trước Thế chiến II nước Pháp còn tương đối ổn định về mặt kinh
tế, nhân dân hưởng cuộc sống giàu có sung sướng. Tình hình kinh
tế Pháp tương đối tốt nhưng tình hình chính trị lại rất tồi tệ.
Khi Thế chiến II nổ ra, người Pháp không còn đoàn kết nhất trí
trung thành với đất nước như hồi năm 1914, nước Pháp không có
nhà lãnh đạo kiệt xuất, cả nước trên dưới sống trong bầu không
khí chính trị hỗn loạn, bước vào chiến tranh với đầu óc mơ hồ,
trong nước tràn đầy tâm lý chán ghét chiến tranh, nhiều người
thà chịu đựng bất kỳ nỗi nhục nhã nào chứ không dám liều thân
quyết chiến. Trước chiến tranh, một nhà văn Đức từng có lời bình
luận sâu cay như sau: “Pháp là một dân tộc hấp hối chết tiêu