“Không biết ai tên như thế cả,” gã nói. “Ông ta sống ở đây à?”
Tôi mỉm cười. Gã không thích nụ cười đó. Đôi mắt gã trở nên thật bẩn
thỉu. Tôi nói: “Ông là Joe Brody?”
Khuôn mặt màu nâu trở nên cứng lại. “Thì sao? Có nỗi buồn khổ nào à,
người anh em hay chỉ là tự làm mình vui?”
“Vậy là ông là Joe Brody,” tôi nói. “Và ông không biết ai tên là Geiger.
Điều đó thật buồn cười.”
“Gì cơ? Có lẽ anh có sự hài hước thú vị. Hãy mang nó đi và dùng nó ở
nơi khác.”
Tôi dựa vào cánh cửa và trao cho gã một nụ cười mơ màng. “Joe, ông có
những quyển sách. Tôi có danh sách những kẻ ăn bám. Chúng ta phải nói
chuyện.”
Gã không chuyển mắt khỏi gương mặt tôi. Có một âm thanh nhỏ trong
căn phòng phía sau gã như thể một vòng mềm kim loại chạm nhẹ vào khẩu
súng kim loại. Gã mở cửa rộng hơn.
“Tại sao không nếu anh nghĩ anh có cái gì đó?” Gã nói lạnh lùng
Gã đứng cạnh cửa. Tôi đi qua gã vào phòng.
Đó là một căn phòng vui mắt, đồ đạc tốt và không nhiều lắm. Những cánh
cửa sổ kiểu Pháp mở ra một cổng vòm bằng đá, nhìn qua hoàng hôn tới chân
đồi. Gần cửa sổ là một cánh cửa đóng phía bức tường phía tây và gần cửa ra
vào có một cánh cửa khác cùng bức tường ấy. Cánh cửa cuối này có một tấm
rèm bằng vải lông nhung vắt ngang qua trên một thanh đồng mỏng dưới rầm
đỡ.
Ở đó có một phòng phía tây, bên trong đó không có cánh cửa nào cả. Có
một chiếc ghế bành ba chỗ để giữa, tôi ngồi lên chiếc ghế bành. Brody đóng
cửa và đi tới một chiếc bàn cao bằng gỗ sồi với rất nhiều con ốc vuông. Một
chiếc hộp làm bằng gỗ tuyết tùng với tấm bản lề mạ vàng nằm ở dưới phiến
đá hạ thấp của chiếc bàn. Gã mang cái hộp tới một cái ghế giữa hai cánh cửa
và ngồi xuống. Tôi thả mũ xuống chiếc ghế bành và đợi
“Chà, tôi đang nghe đây,” Brody nói. Gã mở hộp xì gà và để mẩu thuốc lá
vào cái đĩa bên cạnh. Gã đặt một điếu xì gà dài lên miệng. “Xì gà không?”