“Vâng. Hay đấy.” Cậu bé khịt mũi. “Ngay cả Will cũng không thể nói
chuyện với chị ấy mà không cãi cọ. Chị ấy khiến mọi người nổi điên.”
Khi Steve lên mười hai, ông có vài người bạn. Trong giữa khoảng thời
gian đến trường và việc luyện tập piano, ông có một ít thời gian rảnh rỗi, và
người ông thường nói chuyện nhất là mục sư Harris.
Vào thời điểm đó trong cuộc đời ông, piano trở thành nỗi ám ảnh, và
Steve thường tập luyện từ bốn đến sáu giờ mỗi ngày, lạc lối trong thế giới
của những giai điệu và sáng tác. Lúc đó ông thắng nhiều giải thi đấu địa
phương và toàn bang. Mẹ ông chỉ có mặt trong lần đầu tiên, và cha ông
chưa một lần đến. Thay vì thế, ông thấy bản thân thường ngồi trên ghế
trước xe hơi với mục sư Harris, khi họ du hành đến Raleigh hoặc Charlotte
hoặc Atlanta hoặc Washington, D.C. Họ trải qua nhiều giờ đằng đẵng
chuyện trò, và dù mục sư Harris là một người mộ đạo và cầu Chúa Kitô
trong phần lớn cuộc đàm luận, luôn nghe có vẻ tự nhiên như ai đó từ
Chicago bình luận về tính phù phiếm vô tận của những giải thưởng trong
suốt cuộc ganh đua cờ hiệu.
Mục sư Harris là mẫu người hướng dẫn những mảnh đời bị tàn phá, ngài
kêu gọi một cách nghiêm túc, và phần lớn các buổi tối, ngài phục vụ các
giáo dân, không tại bệnh viện thì cũng tại nhà tang lễ hoặc những buổi hội
họp các thành viên mà ngài coi như bạn hữu. Ngài cử hành lễ cưới và lễ rửa
tội vào mỗi cuối tuần, và ngài có nhóm thân hữu vào tối thứ tư, vào thứ ba
và thứ năm ngài làm việc với ca đoàn. Nhưng mỗi tối, trước lúc hoàng hôn,
và bất luận thời tiết thế nào, ngài dành riêng cho bản thân một giờ đi dạo
trên bãi biển một mình. Khi ngài quay về, Steve nhận thấy, thời gian tĩnh
mịch đó phải là những gì vị mục sư cần. Có một sự yên ổn và thanh bình
trên vẻ mặt ngài mỗi khi ngài quay về từ cuộc đi dạo đó. Steve thường cho