dài. Con có chắc là con muốn nghe không?”
Cô gật đầu.
“Cha có lẽ sáu hay bảy tuổi khi lần đầu tiên cha đi vơ vẩn vào nhà thờ
của mục sư Harris. Cha tìm một nơi tránh mưa – cha muốn nói, trời đã đổ
mưa và cha bị ướt sũng. Khi cha nghe thấy ông ấy chơi piano, cha nhớ đã
nghĩ ông sẽ nói cha không thể ở lại. Nhưng ông đã không làm thế. Thay vì
vậy, ông mang cho cha một chiếc mền và một tách soup, và ông gọi điện
cho mẹ của cha để bà có thể đến đón. Nhưng trước khi bà đến, ông ấy đã để
cha chơi piano. Cha chỉ là một đứa trẻ, nện rầm rầm trên phím đàn,
nhưng… dù sao thì, cha đã trở lại vào ngày hôm sau, và rốt cuộc ông ấy đã
trở thành thày dạy piano đầu tiên của cha. Ông ấy có một tình yêu sâu sắc
với âm nhạc. Ông ấy thường nói với cha rằng âm nhạc tuyệt vời gần giống
tiếng hát của các thiên thần, và cha đã đam mê ngay. Cha đến nhà thờ mỗi
ngày và cha đã chơi rất nhiều giờ bên dưới ô cửa sổ đó, với ánh sáng siêu
phàm tràn ngập quanh cha. Đó là hình ảnh mà cha luôn thấy khi cha hồi
tưởng lại những giờ cha đã trải qua ở đây. Sự tuôn chảy của ánh sáng tuyệt
vời. Và cách đây vài tháng, khi nhà thờ bị thiêu rụi…”
Ông chỉ vào bài báo trên tường. “Mục sư Harris gần như đã chết đêm đó.
Ông ấy đang ở bên trong để viết lại bài thuyết giáo của ông ấy, và chỉ vừa
vặn thoát được. Nhà thờ… tiếp tục cháy trong nhiều phút và toàn bộ nơi đó
bị thiêu rụi đến tận đất. Mục sư Harris nằm viện một tháng, và từ lúc đó
ông ấy phải hành lễ trong một kho hàng cũ mà người ta để cho ông dùng.
Nó cáu bẩn và tối tăm, nhưng cha đoán nó chỉ là tạm thời cho đến khi ông
ấy kể với cha rằng bên bảo hiểm chỉ đền phân nửa thiệt hại, và không cách
nào họ có khả năng cho một ô cửa sổ mới. Cha không thể hình dung điều
đó. Nhà thờ sẽ không còn là nơi giống như cha nhớ, và điều đó không
đúng. Vì vậy cha định hoàn thành nó.” Ông hắng giọng. “Cha cần hoàn
thành nó.”