truyền tương tác giả định của trường hấp dẫn, tức là graviton. Mặc dù
những gói nhỏ bé nhất đó của trường hấp dẫn còn chưa bao giờ quan sát
được, nhưng các nhà lý thuyết đã tiên đoán một cách vững tin một số đặc
tính cơ bản mà nó cần phải có. Đồng thời, Scherk và Schwarz cũng đã tìm
ra rằng những đặc tính đó cần phải được thực hiện chính xác bởi một số
mode dao động.
Dựa trên kết quả đó, hai người đã cho rằnglý thuyết
dây sở dĩ thất bại ở giai đoạn ban đầu của nó là bởi vì các nhà vật lý đã
hạn chế quá đáng phạm vi của nó
. Lý thuyết dây không chỉ là thuyết của
tương tác mạnh mà nó còn là lý thuyết lượng tử bao hàm được cả lực hấp
dẫn nữa.
Cộng đồng các nhà vật lý kiên quyết không chấp nhận ý kiến đó. Thực tế,
Schwarz đã phải thú nhận rằng "công trình của chúng tôi hoàn toàn không
được đếm xỉa đến"
. Con đường tiến bộ chất ngổn ngang những ý đồ thất
bại trong việc thống nhất hấp dẫn với cơ học lượng tử. Lý thuyết dây đã
thất bại trong nỗ lực ban đầu của nó nhằm mô tả tương tác mạnh và đối với
nhiều người dường như sẽ là vô nghĩa nếu có ý định dùng nó để đạt tới mục
tiêu lớn hơn. Thậm chí những nghiên cứu sau đó còn gây sửng sốt hơn nữa,
vào cuối những năm 1970 đầu những năm 1980 lý thuyết dây và cơ học
lượng tử có những xung đột tinh tế riêng với nhau. Hóa ra, lại một lần nữa,
lực hấp dẫn vẫn ương ngạnh chống lại sự hợp nhất trong một lý thuyết
lượng tử mô tả vũ trụ.
Tình hình không có gì sáng sủa hơn cho tới tận năm 1984. Trong một bài
báo cáo có tính chất cột mốc tích tụ của hơn 12 năm nghiên cứu căng
thẳng, phần lớn không được ai ngó ngàng tới và thường bị đa số các nhà vật
lý bác bỏ, Green và Schwarz đã xác lập được rằng sự xung đột lượng tử
tinh tế ảnh hưởng xấu đến lý thuyết dây đã được giải quyết. Hơn thế nữa,
họ còn chứng minh được rằng lý thuyết mà họ xây dựng được có đủ tầm
vóc để bao hàm được tất cả bốn lực và cả vật chất nữa. Khi tin đồn về kết
qủa này đến tai cộng đồng vật lý trên khắp thế giới, hàng trăm nhà vật lý
hạt đã bỏ luôn công việc nghiên cứu đang làm của họ để lao vào một cuộc