gian Calabi-Yau nào đó cho ta cả một lớp nghiệm, nhưng ngay cả như thế
cũng không vét hết mọi khả năng vì nó cũng cho phép một sự phân chia
khác giữa số các chiều có quảng tính lớn và số các chiều bị cuộn lại.
Vậy chúng ta có thể làm gì từ những kết quả đó? Có ba khả năng. Thứ nhất,
ta hãy bắt đầu từ khả năng bi quan nhất, mặc dù cả 5 lý thuyết dây đều có
các phương trình xác định giá trị của hằng số liên kết cũng như số chiều và
dạng hình học chính xác của không - thời gian - một điều mà chưa có lý
thuyết nào dám kỳ vọng -, nhưng thậm chí dạng chính xác (hiện còn chưa
biết) của các phương trình đó vẫn có thể chấp nhận một phổ rộng lớn các
nghiệm và điều này sẽ làm yếu đi đáng kể sức mạnh tiên đoán của nó. Nếu
đúng là như vậy thì đây quả là một bước lùi. Vì lý thuyết dây hứa hẹn rằng
nó có thể giải thích được những đặc điểm đó của vũ trụ chứ không cần xác
định chúng bằng thực nghiệm rồi chèn vào lý thuyết một cách khá tùy tiện.
Chúng ta sẽ còn trở lại khả năng này vào chương 15. Thứ hai, sự mềm dẻo
không mong muốn (tức khả năng chấp nhận nhiều nghiệm) của các phương
trình gần đúng có thể là một chỉ dẫn về một lỗi tinh vi nào đó trong suy
luận của chúng ta. Chúng ta đã thử dùng lý thuyết nhiễu loạn để xác định
chính giá trị của hằng số liên kết. Nhưng như đã thấy, các phương pháp
nhiễu loạn chỉ có nghĩa khi hằng số liên kết nhỏ hơn 1 và do đó tính toán
của chúng ta có thể dựa trên một giả thiết không có căn cứ về đáp số của
nó, cụ thể là kết quả phải nhỏ hơn 1. Thất bại của chúng ta có thể là một
dấu hiệu báo rằng giả thiết đó sai, và có lẽ hằng số liên kết trong cả 5 lý
thuyết đều lớn hơn 1. Thứ ba, sự mềm dẻo không mong muốn cũng có thể
đơn giản là do ta đã dùng các phương trình gần đúng chứ không phải chính
xác. Ví dụ, mặc dù hằng số liên kết trong một lý thuyết dây nào đó cứ cho
là nhỏ hơn 1 đi, nhưng các phương trình của lý thuyết dây còn phụ thuộc
một cách khá nhạy cảm vào đóng góp của tất cả các giản đồ. Tức là, những
bổ chính nhỏ từ các giản đồ có số vòng tăng dần tích tụ lại, có thể sẽ có ảnh
hưởng quan trọng đối với việc làm thay đổi các phương trình gần đúng
(chấp nhận nhiều nghiệm) thành các phương trình chính xác có tính hạn
chế hơn rất nhiều.
Vào đầu những năm 1990, nhờ khả năng thứ hai và thứ ba nói ở trên,