các cặp dây ảo đó sẽ càng tăng [
. Tóm lại, nếu hằng số liên kết nhỏ hơn 1
thì những giản đồ có số vòng càng lớn sẽ cho đóng góp càng nhỏ. Đây
chính là tính chất cần thiết để có thể dùng lý thuyết nhiễu loạn, vì nó chỉ ra
rằng chúng ta vẫn có thể nhận được kết quả khá chính xác nếu như ta bỏ đi
tất cả các quá trình chỉ chứa một số ít vòng. Nhưng nếu hằng số liên kết của
các dây không nhỏ hơn 1, thì những giản đồ càng có nhiều vòng càng cho
đóng góp lớn hơn. Cũng như trường hợp của hệ sao ba, điều này sẽ làm mất
hiệu lực của lý thuyết nhiễu loạn. Và khi đó, phép gần đúng thô giả định
lúc đầu, tức là quá trình không có vòng nào - sẽ không còn là gần đúng tốt
nữa. (Điều nói trên đúng với cả 5 lý thuyết dây, tức là giá trị của hằng số
liên kết các dây sẽ quyết định tính hiệu quả của sơ đồ tính toán theo lý
thuyết nhiễu loạn).
Phát hiện này dẫn chúng ta tới câu hỏi quan trọng tiếp theo: vậy thì cụ thể
giá trị của hằng số liên kết của các dây là thế nào (hay chính xác hơn, các
giá trị của hằng số liên kết trong 5 lý thuyết dây là như thế nào)? Hiện nay
chưa có ai trả lời được câu hỏi đó. Đây là một trong số những vấn đề quan
trọng nhất còn chưa được giải quyết trong lý thuyết dây. Chúng ta biết chắc
chắn rằng những kết luận dựa trên lý thuyết nhiễu loạn chỉ đáng tin cậy khi
hằng số liên kết của các dây nhỏ hơn 1. Hơn thế nữa, giá trị của hằng số
liên kết còn có ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng và tính lực được mang
bởi các mode dao động khác nhau của dây. Như vậy, chúng ta thấy rằng rất
nhiều tính chất vật lý phụ thuộc vào hằng số liên kết của dây. Và bây giờ
chúng ta sẽ xét kỹ hơn lý do tại sao câu hỏi quan trọng về giá trị của hằng
số liên kết trong cả 5 lý thuyết dây lại chưa thể trả lời được.