lượng hơn vào sự nhiễu động sóng, do đó càng nhiều năng lượng tương
ứng với biên độ càng lớn. Kết quả, bạn sẽ nghe thấy âm thanh do nó phát ra
to hơn. Tương tự như vậy, năng lượng ít hơn sẽ tương ứng với biên độ nhỏ
hơn và âm thanh nghe bé hơn.
Bằng cách sử dụng nhiệt động lực học của thế kỷ XIX, các nhà vật lý đã
xác định được thành lò nóng đã bơm bao nhiêu năng lượng vào các sóng
điện từ của từng bước sóng cho phép hay nói một cách hình ảnh, các bức
tường đã “gảy” mỗi sóng đó mạnh tới mức nào. Kết quả là họ đã tìm ra một
đáp số đơn giản: Mỗi một sóng cho phép, bất kể bước sóng của chúng, đều
mang cùng một lượng năng lượng (với định lượng chính xác được xác định
bởi nhiệt độ của lò). Nói một cách khác, tất cả các sóng khả dĩ có trong lò
đều hoàn toàn bình đẳng với nhau trên phương diện liên quan tới lượng
năng lượng mà chúng chứa.
Thoạt đầu, điều này tưởng như là một kết quả khá thú vị nhưng vô hại.
Nhưng thực tế không phải như vậy. Nó đã dẫn tới sự sụp đổ của cái được
gọi là vật lý cổ điển. Sở dĩ như vậy là vì: mặc dù việc đòi hỏi các sóng phải
chứa một số nguyên các đỉnh và các hõm đã loại bớt đi một số rất lớn các
sóng có thể có trong lò, nhưng vẫn còn một số vô hạn các sóng thỏa mãn
đòi hỏi đó, mỗi một lần lại có nhiều đỉnh và hõm hơn. Vì mỗi sóng như vậy
mang cùng một lượng năng lượng, nên một số vô hạn các sóng đó sẽ mang
một năng lượng toàn phần là vô hạn. Vậy là, vào lúc bước sang thế kỷ mới,
thế kỷ XX, đã có một hạt sạn lớn kẹt giữa những bánh xe của bộ máy lý
thuyết.