sang gần tới nơi bình yên thì lại chết vì một viên đạn nào đó trong vườn, từ
sau một bụi tre bắn đi. Cái chết thật như sự bỡn cợt.
Vậy số phận tôi, số phận gia đình tôi lấy gì bảo đảm. Tôi đã chạy cùng
khắp, về nhà quê, lộn lại lên Huế. Ở nhà quê cũng có người chết vì đại bác
rơi lạc. Về thành phố, tìm nơi an ổn nhất cũng có những viên đạn đi lạc hết
sức vô tình. Tôi bỗng bàng hoàng cả người khi nghĩ tới những ngày ở nhà
thờ, ở Cung An Ðịnh, những ngày chạy từ Tân Lăng về miệt đường rầy. Ở
đâu cũng đầy cái chết mà chúng tôi chưa biết, chưa chết, chớ không phải là
không thể chết.
Ban đầu tôi nghe đồn là Việt cộng ở chơi ba ngày, rồi tăng lên bảy ngày.
Rồi tin cụ Hồ vào thăm dân. Cụ chưa vào mà thành phố đã chết đứt một
nửa, đã tan nát sụp đổ gần hết. Ngày cụ vào, chắc gì con cháu còn sống để
hoan hô cụ. Nhìn đồng bào chết, lòng tôi không khỏi xót xa, nhưng nhìn
những xác Việt cộng tôi cũng không thể căm thù họ. Họ cũng chết la liệt
cho bác Hồ vô Huế. Thái nói:
- Răng tự nhiên chị khóc?
Tôi phải nói là tôi sợ lắm. Chắc Thái cũng đang nghĩ gì mà tôi nhìn thấy
mắt nó buồn hiu. Về tới nhà, má tôi đang đứng lấp ló ở cửa. Bà chạy xổ ra
kéo chúng tôi vào nhà, vừa mắng vừa khóc:
- Tụi bây thiệt. Tụi bây thiệt làm tao hết hồn hết vía.
Rồi bà kéo chúng tôi vào nhà. Trên bàn thờ ba tôi, mùi nhang bay thơm
phức. Dì Vạn đang thổi cơm bằng chiếc bếp nấu dầu hôi ở một góc nhà. Dì
nói:
- Trưa ni ăn cơm có đu đủ kho nghe bây. Dưới Thủy Dương vừa mang
lên, của cậu mợ Giáo gửi cho đó.
Thái ngơ ngác: