cả giòng sông chụp lấy tôi, nhận chìm tôi xuống. Tôi đã lết tới sát bờ sông,
tôi vục cả mặt mình xuống, trườn cả người xuống, giòng nước mát lạnh
như muốn đóng tôi thành một tảng băng. Rồi có tiếng la chới với: Cứu
người ta với, cứu người ta với. Tôi bị nhấc bổng lên một con thuyền, và tôi
thiếp đi.
Khi tôi tỉnh dậy thì thuyền đã qua sông. Tôi bị mấy vết thương khá nặng.
Có bao nhiêu tiền, tôi dốc cho người lái đò đã cứu sống tôi hết. Tôi từ giã
người lái đò rồi cố gắng vừa bò vừa lết lên đường.
Hình như tôi bò ngang qua nhiều xác chết lắm. Tôi đến được trường
Kiểu Mẫu. Ở đây, người ta tị nạn đông lắm, đông đến nỗi tôi không còn có
chỗ nằm. Tôi được băng bó sơ sài, được ăn uống. Người ta khuyên tôi nên
đi về phía An Cựu, ở đó đã yên, may gặp quân đội, họ chở về Phú Bài mới
có thuốc thang băng bó. Tôi đã đi qua bao nhiêu con đường nhỏ, tôi có
ngang qua bưu điện nữa thì phải, cứ ở chỗ này có tiếng súng, tôi bò tránh
sang chỗ khác. Nơi bưu điện, tôi thấy có mấy xác Việt cộng bị xích chân
nơi khẩu đại liên. Họ đã chết. Một nơi khác tôi cũng thấy tương tự như thế.
Khi tới cầu An Cựu, tôi thấy có lính mình và người Mỹ. Tôi chưa kịp đi tới
thì xẩy ra tiếng súng, tôi vội lết vào con đường nhỏ để tránh đạn. Khi đi qua
đoạn đường hồi nãy anh cứu tôi, tôi bị một phát súng trong vườn bắn ra.
Tôi ngã ngay xuống đất. Dù vậy, tôi cũng cố lết tới cái hố bom để tránh đạn
lạc. Khi ở trường Kiểu Mẫu, tôi thấy có nhiều ngôi mộ mới. Người ta nói:
mỗi ngày có mấy người chết. Hoặc bị thương từ trước, hoặc trúng bom. Tôi
tưởng qua tới đây thì có thể về Phú Bài được. Nhưng giờ thì tôi hết hy vọng
rồi. Tôi không hiểu sao tôi còn tỉnh táo tới phút này để kể cho anh, cho chị
nghe chuyện của tôi được. Có lẽ máy bay đã xa rồi.
Thôi anh chị để mặc tôi, chạy đi, không họ tràn tới bây giờ. Xin dựng tôi
nơi cánh cửa, không, nơi cái cột kia cũng được. Tôi còn nhìn thấy mưa,
thấy cỏ cây. Bụi cây trước mặt chưa có một vết đạn nào tới phá, mưa gội
sạch hết để tôi nhìn...