Một ngày rồi, tôi không nhớ chồng con. Căn nhà nhỏ của gia đình tôi ở
Sài Gòn lúc này ra sao? Có yên ổn không? Chồng con tôi đang làm gì? Tôi
tưởng tượng từng khuôn mặt các con, hình dáng đi ra đi vào của chồng, rồi
cả bữa cơm tẻ nhạt nữa. Bữa cơm không có bàn tay người đàn bà, thiếu chỗ
ngồi đó, bữa cơm tẻ nhạt tội nghiệp lắm. Má tôi cầm chặt tay tôi:
- Con ơi, dựa vào vai mạ mà ngủ.
Thái đứng lên, nó nói phải đi kiếm một chỗ nào tốt hơn. Tôi gục đầu vào
vai má tôi. Mấy đứa cháu nhỏ đang khóc, đòi nước, đòi cơm, đòi sữa. Tôi
nghe tiếng cánh cửa sắt phía cửa chính kêu lẻng kẻng. Không có một ai ở
ngoài đường, ngoài sân. Ngôi nhà giảng rộng lớn có mái cong và nhiều chỗ
đặt kính, tường thật dày, cách khoảng những lá cửa bằng gỗ lim đóng chặt.
Nhiều tiếng đạn lớn bay ngang qua khu nhà thờ, rồi tiếng nổ ầm ầm sau
đó. Má tôi kéo tôi tựa người vào bà. Tôi ngồi như thế và nhìn mãi ngọn đèn
cầy đặt nơi chân ghế, trước mặt. Ngọn lửa không nhắc nhủ tôi gì hết, cũng
không đem tới chút hy vọng nào.
Tôi nghe những tiếng khóc nhỏ, nhiều vô số kể. Có tiếng khóc thét lên ở
góc phòng đằng kia. Chắc một người nào đó vừa mới chết.
Có tiếng dép lẹp xẹp từ một ngách nhỏ nối liền nhà ngang. Rồi một cái
bóng to lớn nổi lên ở khoảng tường đằng trước mặt. Rồi lố nhố những cái
bóng nhỏ khác, đầu với nửa người cũng hiện lên theo. Tôi quay lại, trên cái
bục cao, dưới tượng Ðức Mẹ, một người đàn ông mặc áo chùng đen đang
đứng giơ cao ngọn đuốc. Một ông thầy, một linh mục. Tất cả mọi tiếng
khóc rấm rứt, những tiếng thì thầm vụt biến mất. Tôi nghe phía đó cất lên
một giọng nói:
- Tắt hết đèn cầy đi, tôi sẽ đặt ngọn đuốc này ở đây. Mọi người bình tĩnh
và tìm chỗ ngủ đi. Chúa sẽ che chở cho chúng ta.