vấn đề; điện thì lúc có, lúc không, nước nhiều khi thức đêm để hứng và… bụng thì lúc nào cũng thấy
đói.
Nói cách khác, lúc đó cả đất nước nói chung và từng người Việt Nam nói riêng đứng trước rất
nhiều vấn đề. Hoàn cảnh này càng thúc đẩy tôi hành động để biến ý định được hình thành từ khi học
Thầy G.S.Altshuller - tác giả của Lý thuyết giải các bài toán sáng chế (TRIZ), năm 1971 tại Đại học
sáng tạo sáng chế, Baku, Liên Xô trước đây thành hiện thực: phổ biến PPLST một cách rộng rãi ở
Việt Nam. Nhờ được học PPLST và có được các ích lợi thiết thực do sử dụng PPLST, tôi cho rằng,
người càng nghèo càng phải biết sử dụng các phương pháp và các kỹ năng của PPLST để có thể đưa
ra lời giải, quyết định đúng cho vấn đề của mình ngay từ đầu. Bởi vì, tiếp tục trả giá cho phương pháp
truyền thống thử và sai là điều vô cùng xa xỉ, không chấp nhận được.
Từ đó tôi đặt ra hàng loạt các vấn đề cần giải quyết. Trước hết là soạn chương trình thích nghi
PPLST dùng để dạy và nội dung tóm tắt các bài giảng cho người học - những người chỉ cần có trình
độ phổ thông trung học là đủ để tiếp thu môn học, không phân biệt tuổi, ngành nghề, chuyên môn,
chức vụ, thành phần xã hội… Tôi dùng chữ “thích nghi” bởi vì tôi không thể sao chép nguyên xi
những cái học được ở Liên Xô mà phải tính đến những điều kiện xã hội, kinh tế, khoa học, công nghệ
và văn hóa của Việt Nam. Việc làm này xuất phát từ khái niệm đổi mới (Innovation) được phát biểu
như sau: “Đổi mới là quá trình thực hiện tạo ra những cái mới sao cho chúng được các hệ liên quan
tiếp nhận một cách đầy đủ, ổn định và bền vững để các hệ liên quan hoạt động tốt hơn trước”.
Tiếp theo là các vấn đề thuyết phục lãnh đạo để chương trình PPLST được phép dạy và làm sao để
có người học. Mặc dù ở giai đoạn này, tôi chấp nhận không nhận trợ cấp giảng dạy ngoài giờ và người
đi học không phải đóng học phí. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp thời ấy thường
không ủng hộ những cái khác với kế hoạch từ trên giao xuống. Thêm nữa, phần lớn mọi người, kể cả
các cấp lãnh đạo mà tôi có dịp tiếp xúc đều không hiểu đúng đối tượng, mục đích, ý nghĩa và các ích
lợi của môn học PPLST mà thường căn cứ vào tên gọi để giải thích nội dung môn học theo ý chủ quan
của họ. Chẳng hạn họ cho rằng “phương pháp luận” là một phần của triết học; “sáng tạo” là công việc
cao siêu của các nhà khoa học, sáng chế như Einstein và Edison, làm sao có thể dạy và học được;
“giải quyết vấn đề và ra quyết định” là công việc của các nhà lãnh đạo, quản lý cấp cao còn những
người khác là những người thừa hành. Từ đó, họ bày tỏ thái độ không tin tưởng, thậm chí phản đối
một môn học theo họ trừu tượng, xa rời thực tế và không thiết thực trong khi có nhiều vấn đề cấp bách
hơn cần giải quyết. Không chỉ nói sau lưng, có những đồng nghiệp dạy đại học nói thẳng vào mặt tôi,
đại loại: “Anh có phải mới từ Sao Hỏa rớt xuống không?” hoặc “Thời buổi thiếu thốn như thế này chỉ