có những thằng điên mới theo học anh”. Sau này, khi mọi cái ở đúng chỗ của nó, có những cựu học
viên thú thực với tôi: “Thời học thầy, chúng em không dám kể cho ai cả vì sợ bị chế giễu, cười cợt.
Người ta hỏi đi học gì thì trả lời tránh là học ngoại ngữ”. Tóm lại, đây là các vấn đề liên quan đến
tính ì của tâm lý con người nói riêng và của hệ thống nói chung mà tôi gặp trên mỗi bước đường đi
của cuộc đời mình.
Sau khi giải quyết xong vấn đề được phép dạy PPLST và tập hợp được người đi học, tôi dần
chuyển sang giải quyết các vấn đề liên quan đến nghiên cứu hoàn thiện chương trình PPLST và cách
truyền đạt. PPLST phải làm cho những người học đủ mọi trình độ từ mọi thành phần kinh tế, xã hội
học dễ hiểu, áp dụng thuận tiện vào giải quyết các vấn đề của họ trong công việc và đời sống hàng
ngày nhằm đem lại các lợi ích thiết thực cho chính họ. Chương trình PPLST có hạt nhân là TRIZ và
một số các phương pháp của Phương Tây: Phương pháp đối tượng tiêu điểm, Phân tích hình thái,
Danh sách các câu hỏi kiểm tra, Não công, Synectics. TRIZ, như tôi được học, có khởi đầu từ lĩnh vực
sáng chế kỹ thuật và trước hết dành cho các nhà sáng chế kỹ thuật. Tuy thầy Altshuller không ít lần
nhấn mạnh đến khả năng mở rộng TRIZ sang các lĩnh vực không kỹ thuật, trên thực tế, lúc ấy chưa có
một công trình đáng kể nào được công bố theo hướng này. Điều đó làm tôi bắt tay vào giải quyết vấn
đề mở rộng TRIZ và dạy TRIZ mở rộng cho đông đảo mọi người, sao cho ai cũng có thể học, vận
dụng vào thực tế. Tiềm năng của TRIZ cho thấy những vấn đề kể trên có thể giải quyết được và tôi đã
thu được một số kết quả rất khích lệ. Thêm nữa, những kết quả đạt được, theo tôi còn hé mở ra khả
năng xây dựng Lý thuyết tổng quát giải các bài toán sáng tạo mà các phương pháp cụ thể giải các bài
toán sáng tạo hiện có chỉ là những trường hợp riêng của lý thuyết sẽ được thành lập. Đây chính là
hướng nghiên cứu lâu dài của chúng tôi.
Năm 1986 Việt Nam bắt đầu quá trình đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước, thực hiện chính sách mở cửa hội nhập với cộng đồng quốc tế. Năm 1991 tôi quyết định phải
thành lập một trung tâm chuyên ngành với nhiệm vụ chính: giảng dạy và nghiên cứu PPLST, hoạt
động theo cơ chế thị trường bằng cách tự kiếm tiền thông qua thu phí của người học, tự trang trải để
phổ biến và phát triển PPLST ở Việt Nam. Tôi bắt buộc phải làm như vậy, vì trước đó tuy tôi đã gõ
cửa nhiều cơ quan nhà nước, tổ chức… kể cả một số tổ chức quốc tế về văn hóa và giáo dục nhưng
đều nhận được sự từ chối tài trợ. Ngoài tờ giấy quyết định của Đại học tổng hợp TPHCM cho phép
thành lập, Trung tâm sáng tạo KHKT lúc ấy không có gì cả: không diện tích, không phương tiện làm
việc tối thiểu, không có vốn ban đầu và nhiều thứ không khác nữa. Về nhân sự TSK có hai người: tôi