dụng một cách khá rộng rãi, nhất quán phép biện chứng duy vật như là triết
học nền tảng trong suốt quá trình xây dựng TRIZ.
Nhân đây, người viết trình bày ý kiến của các nhà nghiên cứu về mối
quan hệ giữa hai tên gọi “Phép biện chứng duy vật” (Materialist
Dialectics) và “Chủ nghĩa duy vật biện chứng” (Dialectical
Materialism):
Lịch sử khoa học và thực tiễn chứng tỏ rằng, ba mặt: Vật chất, vận động
và phát triển liên quan không tách rời nhau. Sự thống nhất này là cơ sở
khách quan mang tính khoa học tất yếu để kết hợp hữu cơ phép biện chứng
và chủ nghĩa duy vật thành hệ thống duy nhất các quan điểm. Nhờ sự kết
hợp này, chủ nghĩa duy vật mang tính biện chứng, còn phép biện chứng trở
nên duy vật. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác–Lênin đã thành lập học thuyết về vật chất, chứa một cách hữu cơ
trong đó các quan niệm về vận động, phát triển. Đến lượt mình, học thuyết
về sự vận động và phát triển lần đầu tiên được xây dựng dựa trên cơ sở chủ
nghĩa duy vật, với sự hiểu biết rằng, thế giới vật chất thể hiện tất cả các sự
thay đổi (vận động) và hình thức phát triển.
Sự thống nhất và tương tác giữa phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật
không có nghĩa là các khái niệm “chủ nghĩa duy vật biện chứng” và “phép
biện chứng duy vật” trùng nhau hoàn toàn. Khi sử dụng khái niệm “chủ
nghĩa duy vật biện chứng” thì trọng tâm nhấn mạnh hướng đến là: Lời giải
khoa học cho vấn đề cơ bản của triết học (vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý
thức) và khái niệm triết học “vật chất” dựa trên lời giải đó bao gồm các quy
luật vận động và phát triển của vật chất. Còn khi nói “phép biện chứng duy
vật”, thì trọng tâm bây giờ chuyển sang học thuyết về phát triển dựa trên
giải pháp duy vật đối với vấn đề cơ bản của triết học. Do vậy, “chủ nghĩa
duy vật biện chứng”, trước hết, là học thuyết về bản chất vật chất của thế
giới vận động và phát triển; còn “phép biện chứng duy vật” – đấy là học
thuyết về sự vận động, phát triển của chính thế giới vật chất cũng như của ý
thức con người phản ánh thế giới đó.