Ví dụ, hình thức vận động sinh học chứa trong nó các hình thức vận động
thấp hơn như hóa học, vật lý, cơ học nhưng hình thức vận động sinh học
không thể quy về thành những hình thức vận động thấp hơn chứa trong nó.
Cơ thể sinh vật (toàn thể) có những tính chất mà các chất hóa học, phân tử,
nguyên tử (các bộ phận) không có.
Khoa học (về) hệ thống có thể được hiểu là tập hợp các nghiên cứu hệ
thống và những gì liên quan (kể cả ứng dụng) hệ thống.
Từ tất cả những gì đã trình bày ở mục này, chúng ta thấy, khoa học hệ
thống bao gồm:
- Những nghiên cứu hệ thống tương đối cụ thể và đa dạng như nghiên cứu
hệ thống của mỗi lĩnh vực chuyên ngành mà số lượng các lĩnh vực chuyên
ngành khác nhau thì rất nhiều.
- Những nghiên cứu hệ thống với mức độ chung, khái quát hóa khác nhau
như nghiên cứu hệ thống ở mức chuyên ngành, liên ngành, toàn thể các
ngành (toàn thể khoa học) và triết học.
- Những nghiên cứu hệ thống dưới góc độ phát hiện, tìm các ý nghĩa, giá
trị về các mặt phương pháp luận, heuristic... của các luận điểm hệ thống.
- Những nghiên cứu định lượng, toán học hóa, mô hình hóa hệ thống.
- Những nghiên cứu hệ thống nhằm xây dựng các chương trình giải quyết
vấn đề và ra quyết định, đặc biệt, đối với các hệ thống lớn (Big Systems), hệ
thống phức tạp, siêu phức tạp...
Tóm lại, những hướng nghiên cứu như tiếp cận hệ thống, phân tích hệ
thống, các nguyên lý hệ thống... đều là những bộ phận hợp thành của khoa
học hệ thống.
Tuy nhiên, khoa học hệ thống còn chưa phát triển thành hệ thống hoàn
chỉnh kiểu như toán học, vật lý học, hóa học. Còn nhiều luận điểm chưa
được thống nhất giữa các nhà nghiên cứu, nhiều luận điểm mới cần được
phát hiện hoặc xây dựng... Ví dụ, riêng khái niệm “hệ thống”, khái niệm