GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN - Trang 52

đại, đồng thời thoát khỏi vỏ thần bí của phép biện chứng duy tâm. Tư duy biện chứng ở
triết học cổ đại, như nhận định của Ăngghen, tuy mới chỉ là "một trực kiến thiên tài";
nay đã là kết quả của một công trình nghiên cứu khoa học chặt chẽ dựa trên tri thức
khoa học tự nhiên hồi đó. Ăngghen nêu bật ý nghĩa của ba phát minh lớn đối với sự
hình thành triết học duy vật biện chứng: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng,
thuyết tế bào và thuyết tiến hóa của Đácuyn. Với những phát minh đó, khoa học đã
vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận
động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng
của sự vận động và phát triển của nó. Đánh giá về ý nghĩa của những thành tựu khoa
học tự nhiên thời ấy, Ăngghen viết: "Quan niệm mới về giới tự nhiên đã được hoàn
thành trên những nét cơ bản: tất cả cái gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả cái gì là cố
định đều biến thành mây khói, và tất cả những gì đặc biệt mà người ta cho là tồn tại
vĩnh cửu thì đã trở thành nhất thời; và người ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự
nhiên đều vận động theo một dòng và một tuần hoàn vĩnh cửu"

2

.

Như vậy, triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu

lịch sử không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng của giai
cấp công nhân, đòi hỏi phải có lý luận mới soi đường mà còn vì những tiền đề cho sự ra
đời lý luận mới đã được nhân loại tạo ra.

II- Quá trình hình thành và phát triển triết học Mác

1. C.Mác, Ph.Ăngghen và quá trình chuyển biến tư tưởng của các ông
từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và
cộng sản chủ nghĩa

Các Mác (5-5-1818 – 14-3-1883) sinh trưởng trong một gia đình trí thức (bố là

luật sư), ở thành phố Tơrevơ, tỉnh Ranh, một vùng có nhiều ảnh hưởng của Cách mạng
tư sản Pháp. ở thành phố Tơrevơ hồi đó, đạo Kitô là tôn giáo độc tôn; vì thế, cũng như
gia đình, Mác đã là tín đồ Kitô giáo.

Những ảnh hưởng tốt của giáo dục gia đình, nhà trường và của các quan hệ xã

hội khác đã làm hình thành và phát triển ở Mác tinh thần nhân đạo và xu hướng yêu
tự do. Phẩm chất đạo đức - tinh thần cao đẹp đó không ngừng được bồi dưỡng đã trở
thành định hướng cho cuộc đời sinh viên và đưa Mác tới chủ nghĩa dân chủ cách
mạng và quan điểm vô thần. Sau khi tốt nghiệp trung học (1835), Mác theo học luật
học ở Đại học Bon (1835 - 1836) và trường Đại học Tổng hợp Beclin (1836 - 1841);
tại đây, Mác đã nghiên cứu cả triết học và lịch sử.

ở Mác, việc nghiên cứu triết học trở thành niềm say mê của nhận thức nhằm giải

đáp vấn đề giải phóng con người, thực hiện dân chủ, vươn tới tự do và sự hoàn thiện
con người. Năm 1837, Mác đến với triết học Hêghen nhằm tìm ở đó những kết luận có

2

Sđd, tr. 471.

51

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.