cường mạnh mẽ xu hướng duy vật trong tư tưởng của Mác.
Cuối tháng 10 năm 1843, Mác sang Pari. ở đây không khí chính trị sôi động và
được tiếp xúc với nhiều đại biểu trong phong trào công nhân đã dẫn đến bước chuyển
dứt khoát của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Các bài báo của Mác:
Bàn về vấn đề Do Thái, Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Lời nói đầu
trên tạp chí Niên giám Pháp - Đức tháng 2 năm 1844 đánh dấu bước hoàn thành quá
trình chuyển biến đó.
Cũng trên số tạp chí này có các bài của Ăngghen gửi đến từ Mansetxtơ (Anh):
Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị, Tình cảnh nước Anh, Tômát Cáclây, Quá
khứ và hiện tại. Các tác phẩm đó cho thấy, ở Ăngghen, quá trình chuyển biến từ chủ
nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật và từ dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản
cũng đã hoàn thành. Ông đã đứng trên lập trường duy vật và cộng sản để phê
phán kinh tế chính trị học của A. Xmít và Đ. Ricácđô, vạch trần quan điểm chính trị
phản động của Cáclây, một người phê phán chủ nghĩa tư bản trên lập trường của
giai cấp phong kiến. Sự nhất trí về tư tưởng đã tạo nên tình bạn vĩ đại của Mác và
Ăngghen, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời và phát triển một triết học mới
mang tên Mác - một thế giới quan cách mạng của giai cấp vô sản.
Lời nói đầu nhằm giới thiệu tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền
của Hêghen được Mác soạn thảo thời kỳ ở Croixơnăc, dự định đăng tải trong các số tiếp
sau của tạp chí Niên giám Pháp - Đức. Tuy nhiên, sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư
tưởng của Mác thời gian ông sống ở Pari đã được thể hiện trong Lời nói đầu này khiến
cho nó có một ý nghĩa vượt khỏi tính chất của một lời nói đầu.
Sự chuyển biến dứt khoát của Mác từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng
sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản được thể hiện đặc biệt rõ rệt khi C.Mác
đã phân tích một cách sâu sắc theo quan điểm duy vật lịch sử, ý nghĩa to lớn và cả mặt
hạn chế của cuộc cách mạng tư sản mà ông gọi là "cuộc cách mạng bộ phận" hay "sự
giải phóng chính trị", đã phác thảo những nét đầu tiên về cuộc cách mạng vô sản được
gọi là "cuộc cách mạng triệt để" và khẳng định rằng "cái khả năng tích cực" của cuộc
cách mạng triệt để thực hiện sự "giải phóng con người" đó "chính là giai cấp vô sản".
Mác cũng nhấn mạnh sự thống nhất biện chứng giữa lý luận cách mạng và thực
tiễn cách mạng. Theo Mác, gắn bó với cuộc đấu tranh cách mạng, lý luận tiên phong có
ý nghĩa cách mạng to lớn và "trở thành một sức mạnh vật chất". Mác chỉ rõ: "Giống
như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy
triết học là vũ khí tinh thần của mình"
1
Ngoài ra, sự phân tích hai mặt của tôn giáo, bản chất của tôn giáo với luận đề nổi
tiếng "Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân"... đã thể hiện tinh thần biện chứng duy vật
trong tư tưởng triết học của Mác.
1. Sđd, t.1, tr. 589.
54