khái quát kinh nghiệm thể hiện trong những lý thuyết về quy luật và nguyên lý tương
ứng, cấp độ lý luận của các khoa học cụ thể hợp lực với nhau trong sự giải thích các
nguyên lý và quy luật đã phát hiện trên bình diện lý luận chung - bình diện triết học,
hình thành mặt thế giới quan và phương pháp luận của toàn bộ nhận thức khoa học.
Nguồn gốc sâu xa của sự hình thành khoa học là do nhu cầu phát triển sản xuất.
Cùng với sự phát triển của sản xuất và thực tiễn xã hội, khoa học cũng không ngừng
phát triển. Trong quá trình đó, vai trò của khoa học trong đời sống xã hội ngày càng
tăng lên.
Ngày nay, trong sự tự động hóa sản xuất, tri thức khoa học được kết tinh trong mọi
nhân tố của lực lượng sản xuất - trong đối tượng lao động, kỹ thuật, quá trình công
nghệ và cả trong những hình thức tổ chức tương ứng của sản xuất; người lao động
không còn là nhân tố thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chủ yếu là vận dụng
tri thức khoa học để điều khiển quá trình sản xuất; khoa học cho phép hoàn thiện các
phương pháp sản xuất, hoàn thiện việc quản lý kinh tế. Hơn nữa khoa học còn trở thành
một ngành hoạt động sản xuất với quy mô ngày càng lớn, bao hàm hàng loạt các viện,
phòng thí nghiệm, trạm, trại, xí nghiệp với số cán bộ khoa học ngày càng tăng, vốn đầu
tư ngày càng lớn, hiệu quả đầu tư ngày càng cao. Do những biến đổi căn bản về vai trò
của khoa học đối với sản xuất mà khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
5. ý thức thẩm mỹ
ý thức thẩm mỹ là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan hệ với
nhu cầu thưởng thức và sáng tạo Cái Đẹp. Trong các hình thức hoạt động thưởng thức
và sáng tạo Cái Đẹp thì nghệ thuật là hình thức biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ.
Nghệ thuật ra đời từ rất sớm ngay từ khi xã hội chưa phân chia thành giai cấp. Quá
trình hình thành nghệ thuật gắn liền với lao động của con người, với thực tiễn xã hội.
Những dấu vết đầu tiên của nghệ thuật đều thuộc về thời kỳ con người đã biết sản xuất
ra những công cụ bằng đá, bằng xương, bằng sừng, v.v..
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, nghệ thuật bắt nguồn từ tồn tại xã hội.
Khác với khoa học và triết học, phản ánh thế giới hiện thực bằng khái niệm, phạm trù, quy
luật, nghệ thuật phản ánh thế giới một cách sinh động, cụ thể bằng hình tượng nghệ
thuật. Hình tượng nghệ thuật tuy cũng phản ánh cái bản chất của đời sống hiện thực
nhưng phản ánh thông qua cái cá biệt, cụ thể - cảm tính, sinh động. Hình tượng nghệ
thuật cũng nhận thức cái chung trong cái riêng, nhận thức cái bản chất trong cái hiện
tượng, nhận thức cái phổ biến trong cái cá biệt, song cái cá biệt trong nghệ thuật phải là
cái cá biệt có tính điển hình và nếu nhà nghệ thuật tạo ra cái điển hình thì phải là cái
điển hình đã được cá biệt hóa.
Sự phát triển của nghệ thuật, cả nội dung và hình thức, không thể tách khỏi sự
phát triển của tồn tại xã hội. Nhưng nghệ thuật có tính độc lập tương đối rất rõ nét trong
sự phát triển của mình. Nó không phải bao giờ cũng phản ánh tồn tại xã hội một cách
198