những người chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cuộc cách mạng về chính trị sôi động đó.
Thế kỷ XVIII ở Pháp, với những đặc điểm kinh tế - xã hội, chính trị của nó cũng
đồng thời tạo những tiền đề cho sự ra đời của những tư tưởng triết học và tư tưởng văn
hóa nói chung.
Triết học thời kỳ này được gọi là triết học ánh sáng với các đại biểu xuất sắc là La
Metơri (1709 - 1751), Điđrô (1713-1784), Hônbách (1729-1789), Henvêtiuyt (1715-
1771), Vônte (1694-1778)...
Những tác giả của "Bách khoa toàn thư" (1751-1780) do Điđrô lãnh đạo (với sự
tham gia của nhiều nhà triết học trên đây cùng nhiều nhà khoa học tự nhiên nổi tiếng) là
những người đi tiên phong về mặt tư tưởng của Cách mạng tư sản Pháp 1789.
Về mặt triết học, các nhà duy vật Pháp, nổi bật là Điđrô, Henvêtiuyt và Hônbách,
đã góp phần quan trọng vào việc phát triển triết học duy vật và vô thần ở thế kỷ XVIII.
Trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, các nhà duy vật Pháp thừa nhận
vật chất, giới tự nhiên là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất, theo các nhà duy
vật Pháp, tồn tại vĩnh viễn, không do ai sáng tạo ra và cũng không thể tiêu diệt được,
không thể biến đổi vật chất thành hư vô, cũng không thể tạo nên vật chất từ hư vô. Bác
bỏ nhị nguyên luận của Đềcactơ, các nhà duy vật Pháp cho rằng sự phong phú, đa dạng
của sự vật, hiện tượng chỉ là những hình thức khác nhau của tồn tại vật chất do các phân
tử cấu thành. Vật chất là một thực thể duy nhất, nguyên nhân tồn tại của vật chất nằm
ngay trong bản thân nó. Không gian, thời gian là những thuộc tính cơ bản của vật chất.
Theo họ, vận động biểu hiện hoạt tính của vật chất và gắn liền với vật chất. Nhờ vận
động mà giới tự nhiên luôn luôn chuyển động từ trạng thái này sang trạng thái khác.
Tính nhất nguyên của chủ nghĩa duy vật làm cho các nhà duy vật Pháp thế kỷ
XVIII thể hiện mạnh mẽ chủ nghĩa vô thần. Tuy nhiên, họ cũng chưa thấy được rằng ý
thức không chỉ là sản phẩm của dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người, mà còn
là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Họ đã cố gắng khắc phục hạn chế của chủ nghĩa
duy vật ở thế kỷ XVIII, song vẫn không thoát khỏi tính chất siêu hình và cơ giới trong
quan niệm về vật chất và vận động; vận động vẫn chỉ được hiểu một cách cơ giới. Và,
cũng như các nhà duy vật trước kia, các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII vẫn chưa thoát
khỏi duy tâm trong việc giải quyết những vấn đề xã hội.
4. Triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX
Triết học cổ điển Đức ra đời và phát triển trong những điều kiện của chế độ chuyên
chế Nhà nước Phổ. Song, thời kỳ cuối thế kỷ XVIII cuộc Cách mạng tư sản Pháp
(1789) ảnh hưởng mạnh đến nước Phổ, và Hêghen là một người tán dương cuộc cách
mạng đó. Đồng thời xã hội Phổ lúc này với những điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt đã
làm nảy sinh hệ tư tưởng có tính chất tiểu tư sản, thoả hiệp. Tất cả cái đó tạo nên nét
riêng của triết học cổ điển Đức.
Đặc trưng những học thuyết duy tâm của triết học cổ điển Đức là: khôi phục lại
34