GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN - Trang 43

được lý luận cứu nước mới và Người đã làm cho khái niệm dân tộc và dân tộc độc lập
có sắc thái mới ngang tầm thời đại mới.

2. Những quan niệm về nhà nước của một quốc gia độc lập và ngang
hàng với phương Bắc

ở Việt Nam trước và sau khi giành được độc lập dân tộc từ tay phong kiến phương

Bắc, phạm trù dân tộc nằm trong hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến, gắn với tính chất
và địa vị, với chế độ xã hội của giai cấp phong kiến. Chế độ xã hội như là hình thức để
cố kết các yếu tố cấu thành dân tộc và là điều kiện để thực thi quyền dân tộc.

Trước khi người Hán đến, tộc Việt đã có Nhà nước Văn Lang và Âu Lạc của

mình. Người Hán đến, Nhà nước Âu Lạc bị tiêu diệt, lãnh thổ của tộc Việt biến thành
một bộ phận của tộc Hán. Người Việt đấu tranh chống lại sự thống trị của người Hán
cũng có nghĩa là đấu tranh giành quyền tổ chức ra nhà nước riêng của mình, chế độ riêng
của mình. Quyền xây dựng nhà nước riêng, chế độ riêng là mục tiêu hàng đầu của các
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Xây dựng nhà nước trong lúc bấy giờ không thể không tính tới các yếu tố: quốc

hiệu, quốc đô, đế hiệu, niên hiệu,... Làm sao để các danh hiệu đó vừa thể hiện được sự
độc lập của dân tộc, vừa cho thấy sự bền vững, sự phát triển và sự ngang hàng với
phương Bắc. Các triều đại độc lập của Việt Nam đều chú ý đáp ứng những yêu cầu trên.
Chính vì vậy mà sau khi quét sạch lũ thống trị phương Bắc, Lý Bí đã từ bỏ luôn các tên
gọi mà họ đã áp đặt cho nước ta, như: "Giao Chỉ", "Giao Châu", "Nam Giao", "Lĩnh
Nam", v.v. những tên gắn liền với sự phụ thuộc vào phương Bắc, và đặt tên nước là Vạn
Xuân. Tiếp đến nhà Đinh gọi là Đại Cồ Việt, nhà Lý gọi là Đại Việt... Tên hiệu của
người đứng đầu trong nước cũng được chuyển từ Vương sang Đế để chứng tỏ sự độc
lập và ngang hàng với hoàng đế phương Bắc, như từ Trưng Vương đến Lý Nam Đế, từ
Triệu Việt Vương đến Mai Hắc Đế, Đinh Tiên Hoàng... Kinh đô cũng được chuyển từ Cổ
Loa đến Hoa Lư, rồi từ Hoa Lư đến Thăng Long để có được nơi "Trung tâm bờ cõi đất
nước... vị trí ở giữa bốn phương, muôn vật phong phú tốt tươi... chỗ tụ họp của bốn
phương" (Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn), nơi xứng đáng là kinh đô của một nước phát
triển. Như vậy là đầu thời kỳ độc lập, Việt Nam - một quốc gia dân tộc phong kiến về
mặt chính thể từ quốc hiệu, đế hiệu, đến niên hiệu, kinh đô, v.v. đều được nhận thức đầy
đủ và ở đó mỗi tên gọi là một tư thế của sự độc lập, tự chủ, tự cường.

3. Những nhận thức về nguồn gốc về sự động lực của cuộc chiến tranh
cứu nước và giữ nước

Lý luận về dân tộc độc lập và quốc gia có chủ quyền là một vũ khí quan trọng

trong tay lực lượng kháng chiến, song bản thân nó không đủ để làm nên chiến thắng. Kẻ
thù có một đội quân đông đảo và hùng mạnh hơn mình gấp nhiều lần, muốn thắng được
nó cần phải có những hiểu biết khác. Trong đó có những vấn đề bức bách cần phải giải
đáp như: Làm thế nào để động viên được sức mạnh của toàn dân? Làm thế nào để thấy
được thực chất mối quan hệ giữa địch và ta? Để chuyển yếu thành mạnh, lấy ít địch

42

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.