rẻ tiền bạc được tạo ra bằng những cách bẩn thỉu, trong khi ông ấy không
sở hữu cái gì ngoài nó. Tôi không hiểu tại sao cha tôi chào đón những cuộc
viếng thăm của ông ấy, cho đến khi tôi cũng phải làm thế. Tin tôi đi, buộc
phải kết hôn với ông ấy vì một chuyện tủi nhục là tình trạng tài chính đổ
nát của gia đình không hề khiến ông ấy trở nên dễ mến với tôi.”.
Trong giọng bà lộ vẻ hối tiếc. Đột nhiên Langford nhận ra rằng niềm
tiếc nuối đấy không phải dành cho ông mà dành cho ông Rowland đã mất
từ lâu.
Ông cảm thấy một thoáng ghen tị kỳ lạ, “Bà định nói với tôi rằng cuộc
hôn nhân của bà đã hồi phục lại từ điều tồi tệ đó?”
“Phải. Nhưng phải mất rất nhiều thời gian. Khi kết hôn với ông
Rowland, tôi quyết định trở thành một người vợ đứng đắn. Trong khi tôi từ
chối hạ thấp mình bằng cách tìm kiếm tin tức của ngài hay theo đuổi những
cuộc tình, tôi cũng từ chối nhìn nhận ông ấy với bất kỳ tư cách nào khác
ngoại trừ là một người mà tôi đã hy sinh những giấc mơ của mình vì lợi ích
của gia đình. Thậm chí khi những suy nghĩ của tôi đã thay đổi, tôi cũng
không biết phải làm gì. Cảm nhận điều gì đó khác ngoài nghĩa vụ và bổn
phận đối với một người đàn ông mà tôi chỉ gọi là ông Rowland trong quá
nhiều năm dường như là rất kỳ cục”.
Giọng bà bé dần. Cuối cùng bà đưa chiếc bánh sandwich kẹp dưa
chuột lên môi lần nữa, “Chúng tôi đã có ba năm hạnh phúc trước khi ông
ấy qua đời”.
Ông không biết nói gì. Ông luôn luôn coi hôn nhân hạnh phúc là câu
chuyện thần thoại, giống như những con rồng thở ra lửa trong thời kỳ cơ
khí hóa. Ông thấy mình không đủ tư cách để bình luận về mất mát của bà.
Bà ăn chiếc bánh trong im lặng với vẻ ngon lành. Khi ăn xong, bà lắc
đầu và mỉm cười buồn bã, “Bây giờ tôi nhớ ra rằng tại sao xã hội văn minh