người mua cổ phiếu trước đó không giảm thiểu được những tổn thất. Cũng
như quan điểm của Loeb, những người mua trước này hy vọng và chờ đợi
những cổ phiếu mất giá sẽ lấy lại được giá như giá mua vào ban đầu để họ
bán ra và kết thúc giao dịch tại điểm hòa vốn. Darvas hiểu rằng với gánh
nặng lơ lửng trên đầu như vậy sẽ là trở ngại khiến giá của những loại cổ
phiếu này không thể tạo được bước đột phá mới. Thay vào đó, ông tập
trung vào những loại cổ phiếu hàng đầu mới có khả năng phát triển với một
chu kỳ thị trường mới. ông mong tới khi những cổ phiếu này sẽ đạt tới mức
giá kỷ lục. Nếu bán ra những cổ phiếu này với mức giá nhất định để chúng
đạt được vị thế mới thì chúng hẳn đã không trở thành những gánh nặng như
vậy.
Qua những nghiên cứu về biến động giá cổ phiếu, ông nhận thấy cổ phiếu
sẽ được trao đổi trong những phạm vi nhất định. ông phát hiện ra rằng sự
kết hợp của giá và số lượng gia tăng đã để thúc đẩy một loại cổ phiếu tăng
giá. ông cũng không quá chú trọng đến những nguyên nhân đằng sau việc
một số loại cổ phiếu nhất định luôn tăng giá. ông quyết định rằng nguyên
nhân chủ yếu chính là ở tác động của cổ phiếu. Tiếp tục nghiên cứu hàng
trăm biểu đồ và sách hướng dẫn giao dịch cổ phiếu, ông phát hiện ra rằng
cổ phiếu biến động theo những xu hướng nhất định và có nhiều điểm tương
đồng. Có vẻ như chúng đều diễn ra theo những mô hình nhất định theo thời
gian. ông chú ý đến xu hướng lên xuống xác định trong đồ thị của chúng.
Trong những mô hình đó thì các chi tiết về sự chuyển động giá đóng vai trò
then chốt. Điều này rất khó nhận thấy và cũng cần phải nghiên cứu hết sức
chú ý mới có thể nắm bắt được. ông nhận thấy trong các xu hướng biến
động của cổ phiếu một loạt các hệ thống khung mà ông gọi là hộp. Các cổ
phiếu dao động giữa điểm cao nhất và điểm thấp nhất trong khuôn khổ mỗi
hộp.
Với Nguyên lý Hình hộp, nếu một cổ phiếu ông đang theo dõi tạo được các
hộp chồng lên nhau như hình kim tự tháp và là hộp cao nhất hiện thời, ông
sẽ tiếp tục theo dõi. Cổ phiếu sẽ dao động giữa điểm cao nhất và điểm thấp