nhất trong phạm vi hộp, ví dụ như giữa 35 đô la và 40 đô la, sẽ tạo thành
hộp 35/40 theo cách nói của ông.
ông liên tưởng diễn biến giá này với những bước nhảy của người vũ công.
Ví dụ, người vũ công sẽ đứng ở tư thế cúi người và sẽ hơi lắc lư thân mình
một chút trước khi vào tư thế sẵn sàng cho bước nhảy bật lên trong không
trung. ông coi như đường chuyển động của giá cổ phiếu cũng tương tự như
vậy, dao động xung quanh phạm vi hộp. Nếu chưa chạm tới vị trí cận dưới
của hộp thì chúng vẫn được coi là có diễn biến khả quan. Nếu cổ phiếu
xuống giá dưới 35 đô la (tiếp theo ví dụ ở trên), ông sẽ loại cổ phiếu này ra
khỏi danh sách theo dõi, nghĩa là cổ phiếu này không đủ mạnh như mong
đợi của ông, mà ông thì chỉ quan tâm đến những loại cổ phiếu sẽ có khả
năng dẫn đầu về giá.
Vấn đề then chốt trong nguyên lý này là việc theo dõi dao động của cổ
phiếu trong phạm vi hộp. Nếu nó vượt quá cận trên 40 đô la của hộp (tiếp
theo ví dụ trên), nhất là tăng vọt về số lượng, ông sẽ mua vào. Điều này
chứng minh cho ông thấy lúc này cổ phiếu đã sẵn sàng chuyển sang giai
đoạn hộp tiếp theo và đã có đủ điều kiện để tăng giá. ông không đặt ra một
nguyên tắc cố định cho phương thức của diễn biến này, chỉ chủ yếu tiến
hành qua quan sát rồi nhanh chóng có phản ứng nếu gặp thời điểm.
Điều này xảy ra khi bạn đã quen thuộc với những diễn biến thị trường và
những cố phiếu mà bạn vẫn theo dõi hàng ngày, rồi sau đó là những kỹ
năng quan sát không đổi mà bạn có để thực hiện nhiệm vụ này. Điều này
cũng không hề dễ dàng chút nào, nhưng ông đã thành công. Mô hình hộp
thay đổi theo các loại cổ phiếu khác nhau mà ông đang theo dõi. Thách
thức đặt ra với ông ở đây là phải xác định hộp cho mỗi loại cổ phiếu để
đảm bảo dao động sẽ nằm trong giới hạn một hộp riêng cho mỗi loại cổ
phiếu khác nhau. Một lần nữa, điều then chốt để thực hiện được theo đúng
chiến lược này là phải chú ý đến những chi tiết nhỏ kèm theo nghiên cứu.
Sau nhiều lần thử nghiệm áp dụng không thành công phương pháp này, ông