mà không thấy. Truyện kể rằng Thomas, hồi còn trẻ khoẻ, có giấu một
lượng vàng rất lớn ở dâu đó, ngay trong tu viện. Người thường hay hỏi ông
nó ở đâu, ông chỉ cười bảo "Hỏi Julius và Zechariah sẽ bảo cho các ông
hoặc các tu sĩ nối nghiệp các ông" Đôi khi ông nói thêm rằng sẽ chẳng có
gì mà không hài lòng với người nào tìm ra nó. Trong số các công trình mà
vị tu viện trưởng này thực hiện, tôi phải đặc biệt kể đến việc ông đã cho
sơn nhiều hình ảnh rằng đẹp trên ô kính cửa sổ lớn phía đông nam của nhà
thở có hình nộm và gia huy của ông trên chiếc cửa sổ làm chứng. Ông đã
phục hồi lại phần lớn nơi ở của tu viện trưởng, đào một cái giếng trong sân,
trang trí nhiều hình ảnh rất đẹp bằng đá hoa cương. Ông chết đột ngột năm
62 tuổi, đó là năm 1529 sau Công nguyên".
Vậy mà nhà khảo cổ đang có trước mặt là một tài liệu để dò xem các cửa sổ
sơnó của nhà thờ tu viện Steinfeld đến ở những đâu. Không lâu sau cách
mạng, một khối lượng lớn các cửa sổ được đưa từ các tu viện bị tan rã ở
Pháp và Bỉ tới đất nước này, có lẽ hiện giờ chúng được dùng để trang trí
nhiều nhà thờ của giáo khu, nhà thờ lớn, cũng như nhiều nhà thờ nhỏ của tư
nhân. Tu viện Steinfeld đã là một trong những kẻ cống hiến miễn cưỡng
nhất các của vật nghệ thuật của chúng ta (tôi đang trích dẫn đoạn mở đầu
nặng nề chán ngắt của quyển sách mà nhà khảo cổ học) phần lớn các ô kính
cửa sổ của tu viện này được xác định không mấy khó khăn nhờ ở những
chữ viết trên kính đề cập đến thư viện, hoặc chủ đề của các hình vẽ mà nhờ
đó người ta biết các câu chuyện kể nằm trong hệ tác động nào.
Đoạn bắt đầu của câu chuyện này đã hướng nhà khảo cổ theo một luồng
xác định khác. Ông đã nhìn thấy trong một nhà thờ nhỏ của tư nhân ba tấm
hình lớn, mỗi tấm chiếm trọn một cửa sổ, rõ ràng do cùng một nghệ sĩ với
phong cách Đức thế kỷ mười sáu, nhưng cho đến nay không rõ là người địa
phương nào. Chúng thể hiện – hẳn làm bạn ngạc nhiên – ba vị thánh JOB
PATRAIRCH, JOHANNES EVANGELISTA, ZACHARIAS PROPHETA,
mỗi người cầm một quyển sách hoặc một cuộn giấy, trong đó viết một câu
trong tác phẩm của họ. Nhà khảo cổ ghi nhận điều lạ là nó khác với những