này. Vì vậy ông định ở đây một thời gian tương đối lâu – hai hoặc ba tuần
để xem và sao chụp các giấy tờ đó. Ông hy vọng quán Sư Tử Vàng có thể
cho ông một buồng khá rộng vừa làm phòng ngủ, vừa làm phòng làm việc.
Ông giải thích yêu cầu này cho chủ quán, ông này nghĩ một lát rồi đề nghị
tốt nhất khách nên tự đi xem, vừa ý phòng rộng nào trên gác thì chọn lấy.
Tầng trên thì phải leo gác nhiều sau một ngày làm việc, tầng ba không có
phòng rộng như yêu cầu, nhưng tầng hai có thể chọn một trong hai hoặc ba
phòng có kích thước phù hợp.
Ông chủ quán giới thiệu phòng 17 nhưng ông Anderson thấy cửa sổ nhìn
ra bức tường trơ trụi của nhà bên cạnh, buổi tối sẽ rất tối. Phòng 12 hay 14
thì hơn vì cả hai trông xuống đường phố, ánh đèn rực rỡ buổi tối và quang
cảnh bên ngoài sẽ bù đắp lại cho ông sự ồn ào của phố phường.
Cuối cùng ông chọn số 12. Giống các buồng bên, nó có ba cửa sổ, tất cả
hướng ra một phía, buồng khá cao và lạnh một cách bất thường, dĩ nhiên
không có lò sưởi nhưng có một cái lò than khá cổ kính rất đẹp mắt, bằng sắt
chạm trổ, một bên có hình Abraham hy sinh Isaac vbdòng chữ Mug Mose,
Cap.22" ở phía trên. Trong phòng chẳng có gì đáng chú ý ngoài một bức
tranh in cổ kính, miêu tả cảnh thị trấn năm 1820.
Giờ ăn tối đã đến, Anderson vừa tắm rửa mát mẻ, ông xuống cầu thang
trước khi chuông gọi. Ông tranh thủ xem bảng danh sách các khách cùng ở
trọ. Thường ở Đan Mạch tên khách được kẻ trên một cái bảng to, chia từng
cột, từng hàng, mỗi hàng ở đầu là số phòng. Danh sách chẳng có gì hấp
dẫn. Một luật sư người Đức, một người đi chào hàng từ Copenhagen. Chỉ
có mỗi một điểm duy nhất khiến người ta phải nghĩ ngợi đôi chút là trong
liệt kê các phòng không có số 13, Anderson đã để ý trong nhiều khách sạn
khác ở Đan Mạch cũng vậy. Ông không hiểu tại sao cái con số đặc biệt ấy,
bình thường như thế mà lại có sức mạnh lan rộng khiến người ta bỏ không
dám đánh số, ông quyết định sẽ hỏi ông chủ xem các chủ quán giống như
ông ta và bản thân ông ta đã bao giờ gặp khách hàng không chịu ở phòng
13 hay chưa.
Ông anh chẳng có gì để kể với tôi về buổi ăn tối hôm ấy (tôi kể ở đây là
theo những gì ông ấy kể cho tôi nghe) cũng như lúc về buồng thu xếp quần