sốc nặng nề, bọn trẻ đầu xanh vô tội. Nếu vì quá sợ hãi hoặc vì một lý do
không đâu mà không dám nói ra. Bọn trẻ nín khe, hay có khi muốn quên
luôn. Thế mà trong ký ức hãy còn đó”.
Gwenda hít một hơi thật sâu.
“Cô cho đó là chuyện riêng của em hay sao? Sao tới giờ em chẳng nhớ
gì cả?”.
“Làm sao cho nhớ hết từ đầu, muốn nhớ cũng nhớ không ra. Em còn
nhớ mang máng một vài chỗ. Như là lúc em nghe kể lại câu chuyện ở nhà
hát tối hôm trước. Dường như em nhìn thấy “thấu qua lan can” – mà nếu
như mọi khi không ai có thể nhìn xuống thấu qua lan can rà tới ngoài nhà
trước được. Phải ngẩng cổ nhìn mới thấy. Chỉ có bọn trẻ mới nhìn thấu qua
được”.
“Cô nói nghe hay quá”, Gwenda đồng tình.
“Coi vậy mà không phải chuyện nhỉ đâu”.
“Nhưng Helen là ai?” Gwenda đang còn lóng ngóng.
“”Vậy thì em nói cho ta biết, em có dám chắc là Helen?”
“Dạ, đúng thế… lạ thật, bởi em không biết “Helen” là ai – nhưng em
lại biết cô ta mới lạ chứ - em muốn nói chính là Helen nằm chết tại đó…
Em phải làm gì đây nếu muốn biết rõ hơn”.
“Trước mắt em ráng nhớ lại có phải em đã sống ở nước Anh từ lúc
nhỏ. Nếu có thể được hãy nói những mối quan hệ của em nữa”.
Gwenda nói xen vào: “ Em còn dì Alison, chắc là dì phải nhớ”.
“Vậy ta phỉa gửi bức thư cấp tốc cho bà ấy ngay. Ta sẽ nêu ra nhiều
tình huống khẳng định là em đã ở nước Anh. Hy vọng lúc chồng em về ,
em sẽ nhận được phúc đáp”.
“Ôi cám ơn cô Marple, cô thật tử tế. Em mong câu chuyện cô nêu ra là
có thật, như vậy nghe ra mới có lý. Và em muốn nói không có gì gọi là bí
hiểm.”
Marple nhếch mép cười.
“Ta mong mọi việc sẽ chiều ý ta. Qua ngày mốt ta về miền Bắc ở lại
nhà mấy người bạn thân. Độ mười bữa sau ra sẽ trở lại London. Nếu nhằm
lúc chồng em vừa về, nếu em nhận được thư thì cho ta xem luôn một thể”.