rồi nhìn mình trong gương. Trông tôi thật hốc hác, mệt mỏi. Mái tóc tôi đã
để buông lơi dường như ủ rũ trên vai tôi.
Tôi chụp lấy cái áo choàng tắm của khách sạn trong tủ, đi vào nhà
tắm, và bắt đầu vặn nước bồn tắm. Ba phút sau, tội cảm thấy hơi ấm của
nước bắt đầu lấn át cái lạnh trong cơ thể tôi. Khi mặc lại quần áo, tôi đã
chọn bộ đồ chạy bộ mà, thật may mắn, tôi đã mang theo. Thật dễ chịu khi
mặc nó, có dây kéo cao đến cổ, chỉ có khuôn mặt và cái đầu tôi ló ra ngoài.
Tôi cuốn tóc ra sau và kẹp nó lại, rồi trang điểm một chút để che giấu sự
căng thẳng mà tôi thấy trong cặp mắt và vẻ mặt mình.
Những người nổi tiếng đeo kính đen ban đêm luôn làm tôi buồn cười.
Tôi thường tự hỏi họ làm cách nào xoay xở để đọc thực đơn trong nhà hàng
được. Tối nay, tôi cũng đeo cặp kính mà tôi đã đeo khi lái xe ngày hôm
qua. Chúng che kín phân nửa khuôn mặt và khiến tôi có cảm giác được che
chắn.
Tôi cầm lấy cái túi đeo vai và đi xuống lầu tới nhà hàng, rồi mất tinh
thần khi thấy ngoài cái bàn lớn ở giữa đã có tấm bảng giữ chỗ trước trên
đó, dường như chẳng còn chỗ nào còn trống cả. Nhưng người quản lý nhà
hàng cảm thấy tội nghiệp tôi. "Còn một cái bàn nhỏ trong góc, gần cửa nhà
bếp". Ông nói. "Tôi không thích dành nó cho khách, nhưng nếu cô không
thấy phiền lòng..."
"Điều đó được mà". Tôi bảo ông.
Tôi được đưa vào ngồi ở chỗ đó đủ lâu để gọi một ly vang và xem kỹ
thực đơn trước khi họ bước vào phòng ăn. Bác sĩ Barbara Hanover
Galbraith, cha cô ấy, bốn đứa bé gái. Và một người khác nữa. Một cậu con
trai khoảng chín hay mười tuổi, cậu con trai có mái tóc màu cát, mà khuôn
mặt tôi nhận ra rõ ràng như tôi có thể thấy chính mình nếu nhìn vào gương.