còn ở trên sàn. "Nó nhắc nhở anh rằng anh đã đến từ đâu, Liv à". Ông nói
như thế sau một hai nỗ lực lặp đi, lặp lại của bà muốn từ bỏ tấm thảm đó.
Cái ghế da đã mòn có ghế gác chân là điểm ông ưa thích vào buổi sáng.
Ông luôn thức dậy rất sớm, tự pha cà phê cho mình, ngồi vào cái ghế ấy với
những tờ báo buổi sáng trước khi tắm táp, mặc quần áo đi đến văn phòng.
Những kệ sách che kín bức tường đối diện cửa sổ. Rải rác trên đó là
những tấm hình có lộng khung của bốn người chúng tôi từ những tháng
ngày hạnh phúc khi chúng tôi vẫn còn bên nhau. Cha hiện diện ở khắp nơi,
có khi ở cả những tấm hình chụp rất ngẫu nhiên: cái hàm cương quyết,
được làm mềm mại hơn nhờ nụ cười tươi, sự thông minh sắc sảo trong đôi
mắt ông. Ông đã làm đủ mọi việc có thể được để truy tìm Mack và sẽ còn
cố gắng làm điều đó nếu ông vẫn còn sống. Tôi chắc chắn về việc này.
Tôi mở ngăn kéo trên cùng trong bàn giấy của ông và lấy ra cuốn sổ
điện thoại. Tôi viết số điện thoại của Bruce Galbraith ra một tờ giấy. Tôi
nhớ anh ấy đã đi theo con đường kinh doanh bất động sản của gia đình ở
Manhattan. Tôi ghi lại cả số điện thoại nhà lẫn cơ quan của anh.
Nick DeMarco, có cha mẹ là những người nhập cư, họ làm chủ một
nhà hàng nhỏ ở phía trước cửa hàng tại khu Queens. Anh là sinh viên được
trao học bổng ở Columbia. Tôi còn nhớ sau khi nhận bằng MBA từ
Harvard, anh ta đã đi vào ngành kinh doanh nhà hàng và tôi hiểu là anh rất
thành công. Cả số điện thoại nhà, cơ quan và địa chỉ của anh đều ở
Manhattan.
Tôi ngồi tại bàn giấy của cha và nhấc ống nghe lên. Tôi quyết định
trước tiên gọi cho Bruce đã. Có lý do cho việc này. Khi tôi mười sáu, tôi đã
phải lòng Nick thật mãnh liệt. Anh ấy và Mack là những người bạn thân
thiết một cách đặc biệt, và Mack thường xuyên đưa anh về nhà dùng cơm
tối. Tôi đã sống vì những bữa cơm tối đó. Nhưng rồi một buổi tối anh ấy và
Mack đưa một người con gái về cùng. Barbara Hanover, sinh viên năm cuối