có giá trị rất lớn. Nhưng dần dà, hoàn cảnh của họ tương tự hoàn cảnh phụ
nữ ở Cựu Thế giới. Người ta tiếp tục ứng xử với họ theo “phong cách tao
nhã”; họ vẫn tiếp tục giữ những đặc quyền về văn hoá và vị trí thống trị
trong gia đình. Luật pháp sẵn sàng dành cho họ một vai trò tôn giáo và tinh
thần; nhưng mọi đơn đặt hàng của xã hội đều nằm trong tay nam giới. Năm
1830, một số chị em bắt đầu đòi quyền chính trị. Họ cũng phát động một
chiến dịch ủng hộ người Da đen. Năm 1840, trong một cuộc hội nghị, họ
soạn thảo một bản tuyên ngôn theo xu hướng của giáo phái Quaker và xác
định phong cách cho toàn bộ trào lưu nữ quyền Mỹ:
“Đàn ông và đàn bà đều sinh ra bình đẳng, được Tạo hoá ban cho những
quyền bất khả xâm phạm...
Đàn ông biến người đàn bà có chồng thành một con người chết về mặt
quyền công dân... Đàn ông chiếm đoạt đặc quyền của thượng đế: chỉ có
Người là có thể quy định phạm vi hoạt động cho loài người”. Ba năm sau,
bà Beecher Stove
sáng tác Túp lều bác Tôm. Cuốn sách làm dấy lên một
luồng dư luận ủng hộ người Da đen. Emerson và Lincoln
nâng đỡ trào
lưu nữ quyền. Phụ nữ hăng hái tham gia cuộc chiến tranh Nam Bắc; họ yêu
cầu điều khoản bổ sung Luật cho phép người Da đen có quyền đầu phiếu
được ghi như sau:
“Màu da cũng như giới tính... không được cản trở quyền đầu phiếu”,
nhưng yêu cầu đó không được chấp nhận. Tuy nhiên, vì một trong những
điều khoản bổ sung Luật không thật rõ ràng, nên bà Anthony, một lãnh tụ
phong trào nữ quyền có uy tín lớn, lấy cớ ấy để cùng mười bốn đồng chí
của bà bỏ phiếu ở Rochester; bà bị phạt một trăm đôla. Năm 1869, bà lập
Hiệp hội quốc gia đầu tiên của phụ nữ, và cũng trong năm ấy, bang
Wyoming ban hành quyền đầu phiếu cho phụ nữ. Nhưng mãi tới năm 1893,
bang Colorado, rồi năm 1896, hai bang Idaho và Utan mới noi gương
Wyoming. Sau đó, phong trào tiến rất chậm.
Nhưng trên bình diện kinh tế, phụ nữ Mỹ thành công hơn nhiều so với
châu Âu. Năm 1990, ở Mỹ, có 5 triệu phụ nữ làm việc, trong đó có
1.300.000 trong công nghiệp, 500.000 trong thương mại. Có các nữ luật sư,