141
nghiệp giữ họ lại ngoài gia đ nh nhiều giờ liền và ngôn hết sức lực của họ,
với một bên là việc chăm sóc con c{i. Như vậy là vì một mặt, lao động nữ,
chủ yếu v n là một thứ trạng thái nô lệ, và mặt khác, xã hội chưa hề có nỗ
lực để bảo đảm việc chăm sóc, trông coi, giáo dục trẻ nhỏ ngo|i gia đ nh.
Đ}y l| một thiếu sót về mặt xã hội; nhưng c ng sẽ là ngụy biện nếu cho
rằng một đạo luật ghi trên bầu trời và trong ruột gan bà mẹ rằng mẹ và con
thuộc về nhau một c{c độc tôn. Thực ra, sự phụ thuộc l n nhau ấy chỉ là
hai mặt áp bức tai hại.
Thật là huy n hoặc nếu cho rằng nhờ sinh đẻ, phụ nữ trở th|nh người
b nh đẳng với đ|n ông một cách cụ thể. Người ta c ng nói rất nhiều về
những quyền thiêng liêng của phụ nữ, nhưng người mẹ được trọng vọng,
không phải với tư c{ch người mẹ; người phụ nữ có con ngoài giá thú v n
bị khinh miệt; chỉ có trong hôn nh}n, người mẹ được tôn vinh, tức là với tư
c{ch người phụ thuộc vào chồng. Chừng nào chồng v n l| người chủ gia
đ nh về kinh tế, thì con cái v n phụ thuộc vào bố nhiều hơn đối với mẹ, cho
d u người mẹ chăm sóc con c{i nhiều hơn. V vậy, như trên đã nói, quan
hệ mẹ con bị quan hệ của vợ đối với chồng chỉ đạo chặt chẽ.
Vì vậy, quan hệ vợ chồng, đời sống gia đ nh v| sự sinh đẻ tạo thành một
tổng thể mà tất cả mọi yếu tố đều có quan hệ chỉ đạo l n nhau. Nếu gắn bó
một cách âu yếm với chồng, phụ nữ có thể đảm nhận một cách nhẹ nhàng
nhiệm vụ trong gia đ nh; v| nếu cố hạnh phúc với con cái, thì họ sẽ d dãi
với chồng.
Nhưng sự hài hòa này không d thực hiện vì những trách nhiệm khác
nhau quy định cho người vợ không thật ăn khớp với nhau. Báo chí phụ nữ
chỉ vẽ rất nhiều cho người nội trợ nghệ thuật giữ gìn sức cuốn hút của
mình về mặt tình dục trong lúc rửa bát đĩa, giữ gìn vẻ di m lệ trong thời kỳ
mang thai và dung hòa cách làm duyên làm dáng, sự sinh đẻ với cách quản
lý gia đ nh. Nhưng những ai sốt sắng nghe theo sẽ sớm hoang mang về