143
CHƯƠNG III: ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Gia đ nh không phải là một cộng đồng khép kín: vượt qua sự cách ly của
mình, nó thiết lập những mỗi giao tiếp với các tế bào xã hội kh{c. Gia đ nh
không phải chỉ là một “nội thất” đôi vợ chồng khép mình ở trong đó, m|
còn biểu hiện mức sống, tài sản và sở thích của họ nó được trưng b|y ra
trước mắt người khác. Chủ yếu, người vợ sắp xếp cuộc sống ngoại giao ấy.
Với tư c{ch người sản xuất v| người công dân, đ|n ông có quan hệ với
tập thể qua một sự đo|n kết hữu cơ x}y dựng trên cơ sở phân công lao
động. Đôi vợ chồng là một pháp nhân xã hội, được xác định bởi gia đ nh,
giai cấp, giới, chủng tộc, gắn liền bằng những sợi dây của một khối đo|n
kết cơ học với những nhóm, củng cố vị trí xã hội một c{ch tương tự. Vợ có
khả năng tượng trưng cho cả hai vợ chồng một cách trong sáng nhất: quan
hệ nghề nghiệp của chồng thường không khớp với sự khẳng định giá trị xã
hội của họ; còn vợ có thể chỉ giao thiệp với những người bằng vai phải lứa
vì không bị một công việc lao động nào ràng buộc; ngoài ra, có thì giờ rảnh
rỗi để đảm bảo, trong những cuộc “viếng thăm” và “tiếp đón”, những mối
quan hệ, tuy thực ti n là vô bổ và dĩ nhiên chỉ có vị trí quan trọng đối với
lớp người quan tâm giữ vị trí của mình trong trật tự thứ bậc xã hội, nghĩa
là những lớp người tự cho mình là lum một số tầng lớp kh{c. Nghĩa vụ
“đại diện” của họ về mặt xã hội hoà quyện làm một với niềm vui được xuất
đầu lộ diện.
V| trước hết, họ phải tự đại diện cho chính bản thân mình: ở nhà, trong
lúc làm công việc, họ chỉ “ăn mặc”. Để ra phố, để tiếp khách, họ “ăn diện”.
Trang phục của họ mang hai tính chất: vừa thể hiện phẩm chất xã hội (mức
sống, tài sản, giới), vừa cụ thể hoá tính tự yêu mình (narcissisme) của họ.
Nó là ý phục v| c ng l| thứ trang điểm. Qua đó, người phụ nữ vốn đau
khổ vì không có việc g để l|m nghĩ m nh có thể thể hiện thực thể mình.
Chăm sóc sắc đẹp, ăn diện, đó l| một thứ lao động cho phép họ chiếm hữu