199
thế độc lập qua các bước thăng trầm, sẽ thiết tha yêu quý cuộc sống tự do
của mình trong thiên nhiên. Họ tìm cách hoà nhập cuộc sống và sự siêu
nghiệm: họ khước từ học thuyết Descartes và mọi quan niệm về học thuyết
này; họ cảm thấy thỏai mái trong một thứ chủ nghĩa tự nhiên tương tự chủ
nghĩa tự nhiên của các nhà khắc kỷ hay c{c tín đồ của học thuyết Platon -
mới, ở thế kỷ XVI. Người ta không ngạc nhiên khi thấy phụ nữ - đứng đầu
là Marguerite de Nayarre - hết sức gắn bó với một triết học mang tính chất
vừa vật chất vừa tinh thần như thế.
Là người theo thuyết thiện ác nhị nguyên luận về mặt xã hội, phụ nữ hết
sức thiết tha với tinh thần lạc quan vẽ bản thể luận. Họ đòi hỏi cái thiện
phải là một sự hài hoà sống động và họ có mặt trong lòng cái thiện ấy chỉ
do chính cuộc sống của mình. Khái niệm hài hoà là một trong những chiếc
chìa khoá của v trụ nữ giới: nó bao hàm sự tận thiện tận mỹ trong thế bất
động, sự lý giải tức thời mỗi yếu tố từ toàn thể, và sự tham gia thụ động
của mỗi yếu tố vào tổng thể.
Trong một thế giới hài hoà, phụ nữ sẽ đạt tới cái m| đ|n ông t m kiếm
trong h|nh động: họ có ảnh hưởng đối với thế giới, được thế giới yêu cầu
và cộng tác vào sự thắng lợi của cái Thiện. Những khoảnh khắc mà phụ nữ
cho là những sự khải thị (révélation) là những lúc họ cảm thấy mình hoà
hợp với một thực tê dựa trên chính bản thận mình một c{ch yên tĩnh. Đó l|
những khoảnh khắc hạnh phúc sáng ngời mà V.Woolf - trong tác phẩm Bà
Dalloway - và K. Mansfield - trong nhiều tác phẩm - dành cho các nữ nhân
vật như l| một phần thưởng tối cao.
Niềm vui, vốn l| một sự bột phát của tự do, được dành cho nam giới.
Còn ở phụ nữ là một cảm giác sung mãn êm đềm. Trong một đoạn văn sau
đ}y, một nh| văn miêu tả cảm giác ấy của một đôi bạn gái: