28.
H
ữu đến Qui Nhơn vào lúc xế chiều, anh đón xe lam về thẳng khu
Sáu. Sau mấy năm xa cách nghĩa địa đã dày đặc mồ mả. Núi vẫn ở sau
lưng, trọc thấp và đầy đá tảng. Mộ bia trắng toát, câm lặng xếp hàng ngàn
đời. Đèn trên đài ra-đa ở dãy núi phía trong đã lấp lánh trong hoàng hôn
mầu tím than.
Hữu xách cái xách tay đi len vào giữa mồ mả. Có phải nơi này không?
Trước mặt là hàng rào kẽm gai. Khu đất rộng lố nhố những cây thánh giá
trắng hếu như hình người đứng dang tay. Ngày trước dường như chưa có
nghĩa địa này. Đúng rồi, chưa, đó chỉ là bãi cỏ và bụi cây dại, chiều chiều
trẻ con thả bò ăn rong.
Hữu theo đường mòn tiến sâu vô phía chân núi. Nghĩa địa Phật giáo
tiếp ngay phía sau dày đặc những bông sen và chữ vạn. Đúng là mẹ yên
nghỉ trong mảnh đất này. Từ tượng phật bà Quan Âm rẽ sang trái mấy chục
bước là tới phần mộ. Thưa mẹ, con đã về đây. Hữu ngồi xuống trước tấm
bia nhỏ. Trong ánh sáng mờ nhạt của hoàng hôn, Hữu đọc lại dòng chữ
ngày xưa chính tay anh đã khắc trên đó. Nét chữ còn nguyên vẹn nhưng
sơn đã tróc gần hết và rải rác những vết rêu mầu xanh đen.
Hữu cúi người che gió và đốt nhang thơm. Mùi hương thoang thoảng
của khói chợt dâng lên nỗi ngậm ngùi trong lòng anh. Hữu cắm nhang vào
chiếc bình bằng xi-măng phía trước và quỳ mọp xuống trước tấm bia nhỏ.
Lúc ấy anh nghe tiếng ríu rít của đàn chim mía đang bay về phía chân núi.
Hữu ngẩng lên, đàn chim đã bay xa, khuất mất trong bóng chiều, chỉ còn lại
khung trời rộng bàng bạc mây và cái im vắng mênh mông của buổi chiều
ngoại ô. Anh đứng lên, ngôi mộ nhỏ như một nấm đất mọc đầy cỏ úa…
Khói hương bay lên, vỡ tung trong cơn gió im lặng. Anh cố tưởng tượng
hình dáng của mẹ nằm nhưng anh chỉ thấy được hình ảnh cuối cùng của