mẹ. Hình dáng gầy yếu đầu cạo trọc, mắt mờ, bàn tay run run. Có phải khi
con đi rồi mẹ ở nhà chỉ biết vui với ngọn đèn không? Ngọn đèn lúc chập
choạng tối, lúc nửa đêm thức dậy khô cổ quờ quạng đi tìm một miếng
nước. Ngọn đèn hột vịt vàng úa, lu mờ đứng đợi mẹ trong góc phòng, ngọn
đèn nhỏ thay con hôm sớm với mẹ… thay con hầu hạ bên giường? Có phải
chỉ có ngọn đèn đó thôi phải không mẹ? Có phải những buổi sáng sớm rét
run mẹ lê từng bước đi tìm nồi cơm nguội và chai nước mắm nhưng đôi
mắt mẹ đã lòa nên lấy lầm chai dầu lửa và đã phải nuốt nắm cơm khô hôi
nồng và mửa thốc tháo, té nhủi sau hè? Có phải mẹ đã sống những ngày
cuối cùng tàn khốc như thế không? Nấm đất vẫn câm lặng. Nấm đất không
trả lời, chỉ có khói bay lên, vỡ ra, hết lớp này đến lớp khác, chỉ có những
giọt nước mắt ứa ra trên má Hữu, chảy dài từng giọt lặng lẽ.
Hữu đứng im rất lâu cho đến khi cơn gió xao xác đến mang theo tiếng
sóng vỗ rì rào ngoài ghềnh Ráng. Hữu đi quanh nấm mồ. Giọt nước mắt vô
tình vỡ ra trên môi mặn, đầm ấm. Anh nhổ những cọng cỏ may trên mộ và
lá bù xít mọc lan chung quanh. Chiều xuống dày đặc. Thành phố đàng xa
đã lên đèn. Từ biệt mẹ.
Hữu xách cái xách tay theo lối mòn đi ra đường cái. Chuyến xe lam
vắng khách đưa anh về căn nhà người thầy học cũ ở một xóm nghèo bên
chân núi.
Người thầy già sống với một đứa cháu ngoại và cô con gái lớn trong
một khu vườn trái cây nhỏ. Cảnh nhà không có gì thay đổi. Vẫn ánh đèn
dầu leo lét bên cánh cửa sổ sơn màu xanh lá cây. Vẫn tiếng chó sủa gâu gâu
uể oải.
- Ai vô đó?
Hữu bước lên thềm. Đôi mắt người thầy giáo già còn tinh lắm. Đôi
mắt mở to, ngạc nhiên:
- Hữu đấy hả? Thầy nghe nói con…
- Dạ, Hữu đáp, con ở tù mới về đây. Thầy ngày rày có được khỏe
không?
Người thầy đặt bàn tay lên lưng Hữu.
- Vô, vô đi con. Thầy đã nói là thầy sống để chờ ngày hòa bình mà.