tưởng trăm phần trăm, về lòng trung thành của anh ta.
Giờ thực hành sau Đô-man-tô-vích nói chuyện đó với «Tí-hon».
— Cậu hãy mừng đi! Hai ba tuần nữa, nếu còn sống thì ta sẽ bay sang
Ki-ép, người anh em ạ! Chỉ hai người chúng ta thôi. Câu bảo sao nào ?
Xê-rê-đa quay sang cửa sổ, rồi sau lúc lâu im lặng anh ta lầm bầm
như nói với chính mình, chứ không phải với Đô-man-tô-vích.
Ki-ép... An-đrây tử vì đạo. Ở đó có nhà thờ lớn của ông ta. — Rồi
quay sang Đô-man-tô-vích anh ta nói với giọng âu yếm hiếm có: — Mẹ tôi
thường gọi cha tôi là An-đrây và luôn luôn nhắc nhở rằng: «Rồi con sẽ lớn,
và nếu con đến Ki-ép con đừng quên tìm nhà thờ An-đrây tử vì đạo. Cha
con rất thương con và người sẽ can thiệp với Chúa cho con, can thiệp để
Chúa tha thứ cho con mọi tội lỗi...»
— Thể thì bây giờ chúng ta sẽ tới Ki-ép và cậu sẽ cầu nguyên...
— Giả dối tuốt! Không còn Va-xin Xê-rê-da nữa rồi. Cha Ki-rin... Đất
hãy nứt ra chôn lão ta đi thì hơn... Họ đã chà đạp, giày xéo đến tan nát cả
rồi... Chỉ còn mỗi cái tên tôi thì các người cũng đã xoá bỏ nốt. Tôi chỉ là
«Tí hon» thôi. Giả dối! Tất cả đều giả dối tuốt! — Xê-rê-da đập tay xuống
bàn manh đến nỗi nảy bật cả mọi thứ trên mặt bàn. — Không có Chúa,
không có vị thánh nào có thể tha thứ mọi lỗi của tôi cả. Anh có thấy hai bàn
tay này không ? Rõ chứ ? Đến tôi nhìn chúng tôi cũng không chịu nổi.
Chúng vấy mấu rồi! Máu của đồng bào vô tội! Của chính bản thân tôi, tôi
là tên đao phủ!
Anh ta gục xuống bàn nức nở... Đô-man-tô-vích im lặng ngồi bên
cạnh. Mắt không rời khỏi anh chàng khổng lồ có thể bóp chết mình trong
cơn tuyệt vọng... Mười phút trôi qua. Xê-rê-đa nước mắt lưng tròng ngẩng