khước từ, vì vậy mà khi làm quan, chốn hoạn xá rất tiêu-điều, lương bổng
chỉ đủ dùng, cuối năm là hết, thế mà ông cũng không mong cầu cho dư đủ.
Bà phu-nhân thường đem điều ấy thưa với ông, ông cười nói : « Bà không
nhớ lúc cắt cỏ thuê sao ? lúc ấy khi đi đâu thì vợ chồng phải đổi áo mà mặc,
chỉ lo cái ăn đủ mỗi ngày ; nay sánh với xưa, đã hơn gấp mấy lần, thế mà
còn muốn lấy của bất nghĩa để làm giàu sao ? » Từ đó, bà phu-nhân không
dám đem tài lợi mà thưa với ông nữa.
Ông Hiếu tuy xuất thân võ-biền, nhưng hành động, cử-chỉ, có phong
độ một nho thần. Các vị cử-nhân tân khoa đến yết, ông tiếp đãi rất ân cần,
rồi hiểu thị rằng : « Mười năm đèn sách mới có ngày nay, tôi xin mừng cho
các thầy. Ngày sau, được bổ dụng làm quan ; cũng nên giữ-gìn như lúc tân
khổ hồi đi học, chớ có xa-xí thái quá để mang vết xấu cho thân danh, và
phụ ý tốt chọn lựa nhân tài của Triều đình ».
Ông Hiếu khi làm quan đã thi thố nhiều huệ chỉnh, nên được dân
thương mến ; lại nghiêm trị thuộc lại, thuộc lại đều kính sợ. Trong hạt nhiều
trộm, ông Hiếu đến, bọn trộm bảo nhau rằng : « Ông Trấn-thủ là người
nhân huệ, ấy là Phật xuất thế, bọn chúng ta phải tránh đi ». Vì đó, ông đến
đâu thì trộm tránh xa.
Năm Minh-Mạng thứ 2, xa giá Thánh-tổ Nhân-hoàng-đế Bắc-tuần
nghe ông Hiếu trị dân có chứng-tích, triệu đến hành tại ở Thăng-long, thăng
thưởng một cấp, ban cho một thiên-lý kính mạ vàng, một con dao có chạm
khắc và một khẩu súng chữ Kim rồi bổ ông làm Án-trấn Thanh-hóa.
Ở Thanh-hóa, một hôm có chức Thổ-Ty đem lễ hậu đến ra mắt, ông
Hiếu lấy lời ôn tồn từ khước, bảo đem ra. Có một gã đầu xanh ở nhà bếp lẻn
ra theo, dọa nạt người Thổ-ty, lấy một nửa lễ vật. Ông Hiếu biết được, giận
lắm, lập tức sai ra chém, các quan đều can gián, nhưng ông không nghe.
Chém rồi, ông xin chịu tội với Triều-đình. Vua cho là ông Hiếu thiện tiện
giết, giáng 3 cấp, vẫn lưu lại chức cũ.