Bình sanh tánh hay khiêm nhường không ham danh tước, lúc nào cũng
từ chối, nhưng lệ vua luật nước không cho phép. Một hôm vào dịp ngũ
tuần, vua Tự-Đức cùng đình-thần dâng sớ khẩn thỉnh bà chịu tấn tôn huy
hiệu Mỹ-Tự, bà dụ rằng :
Cám Hoàng-đế có lòng hiếu phụng,
Xót trào thần hết bụng lo toan,
Vị vong nhân ai thống tiên hoàng.
Sầu não ấy ngổn ngang chưa giải,
Tấn tôn lễ hãy tua đình đãi,
Đợi Tây-cung rồi lại sẽ hãy.
« Ta đã được thiên hạ phùng sụng, thì nên lo những việc thiên hạ
đương lo, năm nay dân chúng chưa được đặng mùa, ta có vui sướng chi,
chính lúc Hoàng-đế phải lo chăn dân, lòng ta nào có yên mà nghĩ đến sự tôn
vinh, ta xét nét kỹ càng trước cái bả hư danh, bắt buộc ta gánh thêm cho
thất đức hay sao ?
« Vậy thì sớ thỉnh ấy nên bãi đi thì hơn, ta khuyên tất cả chủ công
triều-thần văn võ lo giúp chánh-trị trong nước thái-bình, không chi sánh
bằng ».
Bà hết sức chăm lo việc nước, nghĩ đến sự sống còn của nhân dân, bà
lo sợ cho vua Tự-Đức không sáng suốt làm thất nhân tâm, mỗi đêm bà
thường kêu vua Tự-Đức đến nghe bà phân tách sự lợi hại, bà đóng góp một
phần rất lớn với triều-đình.
Năm 1874, khi hay tin quân đội Pháp vào xâm chiếm toàn cõi Nam-kỳ
và buộc Triều-đình Huế ký hòa-ước nhượng địa, bà hết sức buồn bã bỏ ăn
bỏ ngủ, đứng ngồi không yên, tủi cho vận nước đành ngửa nghiêng do bọn
xâm lăng cướp nước gây tang tóc cho xứ sở.
Vua Tự-Đức bất lực không làm gì được đành phải nhượng bộ để cho
Pháp chiếm trọn 6 tỉnh Nam-kỳ. Vì không tin lời của Phan-Thanh-Giản qua