không ai chịu quay mình trước hỏa lực của quân thù núp trong đồn có lợi
thế bắn ra dữ dội.
Chiến thuật biển người phải đâu là một phát minh mới lạ ? Ngay từ hồi
đó, năm 1861, nghĩa quân của Trương-Định và Cai-tổng Là đã sử dụng làm
khiếp vía quân Pháp thủ đồn. Quân ta anh-dũng quá, mượn thi hài chiến
hữu làm nấc thang tiến lên mãi, chút xíu nữa là đã thành-công. Nhưng rủi
thay, chiến hạm và viện binh Pháp đột nhiên kéo tới giải vây đồn kịp lúc.
Đại-bác dưới tàu phun sắt lửa ; quân xâm lăng với chó săn tập hậu sau lưng
nghĩa quân. Bị dồn ép vào giữa hai làn sắt lửa, Trương-Định đành phải
truyền lịnh rút lui, để cho toàn quân khỏi bị tiêu diệt.
Thương ôi ! Mấy trăm nghĩa-quân anh dũng đã phơi thây trên trận địa,
nhiều người khác thọ trọng thương được chiến hữu cứu đem về. Bầu trời u-
ám, cây cỏ thê-lương, trùng dế cũng khóc than, đất trời ảm-đạm xót thương
những liệt sĩ xã thân vì nước.
Phát biểu mối căm hờn Pháp tặc, nỗi đau thương của bao người yêu
nước vì đồng bào tổ-quốc hy-sinh, cụ Đồ-Chiểu, nhà nho ái-quốc mù lòa,
đã đem hết can-tràng, nước mắt hòa với máu, thảo nên bài văn-tế còn lưu
hậu-thế.
Tiểu-sử cụ Đồ-Chiểu đã được nói rõ trong quyển Kiến-Hòa xưa và nay,
trong mục này chúng tôi không trùng lập lại làm chi.
Bài văn-tế lịch-sử của cụ Đồ-Chiểu, do Bùi-quang-Diệu đại-diện ông
Đỗ-Quang, Tuần-phủ Gia-định, đến đọc tại buổi lễ truy-điệu anh hồn các
chiến-sĩ hy-sinh trong trận đánh đồn Cần-giuộc, thật lâm-ly thống-thiết làm
rơi lệ bao người, mà nguyên văn lưu lại như dưới đây :
VĂN TẾ
HỠI ÔI !
Súng giặc đất rền. Lòng dân trời tỏ,