đen ! Chính người Anh, tướng Gracey, được phân công giải giới quân Nhựt
ở bên nay vĩ-tuyến 18 đã giúp quân Pháp trở lại miền Nam Việt-Nam. Núp
sau mấn quân « chà chóp » và Écossais của Gracey, quân Pháp nhảy dù
xuống Sài-gòn rồi từ đó chuyển lực-lượng từ Bắc-Phi qua lần hồi, đánh
chiếm lại miền Nam nước Việt. Người Việt chúng tôi nhớ mãi « ơn-đức »
của Tướng Gracey và người Anh về việc giúp giặc Pháp chiếm lại miền
Nam. Chiếm lại được miền Nam, quân Pháp xuống Gò-công để bình-trị lại
ít lâu.
Thực-dân khôn-ngoan lắm ! Trước cuộc đổi thay trên thế giới, trước
phong-trào kháng-chiến của nhơn dân Việt-Nam đã thề quyết độc-lập hay là
chết, chúng đưa ra lá bài Nam-kỳ tự-trị, lập Nam-kỳ-quốc, rồi đưa ra lá bài
Bảo-Đại, ký thỏa-hiệp ngày 9-3-1949 nhơn dân Việt-Nam độc-lập ở trong
hai lớp tường cầm nhốt : Liên-bang Đông-Dương và Liên-hiệp Pháp.
Không « chơi bảnh » (Fair play) như người Anh thấy nuốt không trôi là nhả
Ấn-độ cho khỏi chướng và mắc cổ, người Pháp tới mức cùng vẫn rán nhai
và nuốt trợn-trạo để rốt cuộc vẫn không ăn được, bị đời chế nhạo và té lăn
đùng ở Điện-biên-phủ như ai nấy thấy.
Hội-nghị Genève ! Phân chia lãnh-thổ ! Thời kỳ thực-dân Pháp ở Việt-
Nam đã cáo chung !
Quân Pháp vừa rút đi thì đồng bào yêu nước ở Gò-công, một lần nữa
kiến-thiết lại mộ Trương-Công-Định huy-hoàng rực-rỡ hơn. Còn cuộc đất
dựng đài kỷ-niệm Huỳnh-Công-Tấn, chánh quyền địa-phương cất phòng
Thông-tin, để xóa bỏ tàn tích phản dân hại nước. Từ đây đài kỷ-niệm
Huỳnh-công-Tấn sẽ không bao giờ còn mọc lên nữa được.
Mộ Trương-Công-Định sẽ được trường cữu muôn đời, sừng sựng giữa
Trời mây, chứng tỏ tinh-thần quốc-gia bất-khuất của một dân-tộc dám chết
để tìm lẽ sống.