Nam-hải định xuống Hà-tiên. Ghe đi đến cửa Cần-giờ, trời nổi giông bão
lớn, ghe bà chòng chành muốn chìm, bà đốt nhang van vái. Bỗng dưới biển
có 2 con cá rất lớn nổi lên cặp hai bên mạn thuyền, bà sợ hãi than trời,
nhưng hai con cá không làm hại gì mà còn giúp cho ghe khỏi chìm chạy vào
một ngọn sông yên lành. Đó là sông Cần-lộc chảy qua Vàm-láng. Bà Tư Có
nhớ ơn lập miếu thờ và gọi là cá-ông để tỏ lòng kính mến.
Nhận thấy sông Vàm-láng là ụ trú ghe tốt, bà Tư nghĩ ra nghề đánh cá,
bà trở về xứ rủ thêm người qua sắm ghe đan lưới đi chài và đánh cá. Được
khởi đầu bởi một người đàn bà Minh-hương, nghề chài lưới ở Vàm-láng
được người Việt-nam ta với trí thông-minh canh-tân phát-triển. Đồng bào ta
đóng đáy cả hai con nước lớn và ròng trong khi người Tàu chỉ đóng một
con nước lớn ; dân ta lại sáng chế ra đáy rạo là loại đáy đóng có cọc theo
hình chữ V cho nước chảy quặn vào cọc thành như hai tấm đăng, ngư phủ
đặt phía dưới một cái đục cho cá vào.
Ngoài ra, đáy sông cầu là loại đáy ta thường thấy trên các sông rạch để
bắt tôm nhiều hơn cá.
Đến ngày nay, trải qua gần một trăm năm, ngành ngư-nghiệp ở xứ ta
được phát-triển và cơ-khí hóa, dân Vàm-láng đã có những kiểu ghe Kiên-
giang, đánh cá bằng lưới ni-lông và bằng ghe máy.
Chúng tôi thành thật ước mong, khi hòa bình trở lại, một chánh-phủ
độc lập dân chủ thật sự biết lo giúp đỡ nhơn dân, với sự viện-trợ của Ngân-
hàng quốc-tế mở mang Đông-Nam-Á và sự viện-trợ đến tận tay nhơn dân
không bị xén bớt dọc đường, thì ngành ngư nghiệp Vàm-láng sẽ phát-triển
đến cực độ để biến thành một kỹ-nghệ, nâng cao mức sống dân chài, đóng
góp vào sự thạnh vượng chung của xứ sở.